TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế trung ương (CIEM) nhấn mạnh, chúng ta phải không ngừng đổi mới, cả về tư duy, cách làm và mô hình để “sáng tạo” ra những không gian mới cho tăng trưởng kinh tế. |
Khi mô hình tăng trưởng truyền thống đã chạm ngưỡng giới hạn
Tại Hội thảo công bố Báo cáo “Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam”, do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) tổ chức ngày 26/4/2024, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế trung ương cho biết, sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu sâu rộng trong phát triển kinh tế – xã hội nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối diện với những rủi ro, thách thức liên quan đến chất lượng, mức độ bền vững của tăng trưởng. Tăng trưởng vẫn dựa đáng kể vào gia tăng nguồn lực đầu vào và các ngành thâm dụng lao động/tài nguyên. Đóng góp của các nhân tố gắn trực tiếp với cải thiện chất lượng, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo còn chưa tương xứng với kỳ vọng.
Trong khi đó, Việt Nam đang hướng tới tầm nhìn, mục tiêu phát triển dài hạn, cụ thể là trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Để hiện thực hóa tầm nhìn, mục tiêu phát triển này, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao là một điều kiện tiên quyết.
Dù vậy, Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thách thức lớn khi mô hình tăng trưởng truyền thống dựa trên gia tăng vốn, lao động phổ thông, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đã chạm ngưỡng giới hạn.
“Trong bối cảnh ấy, chúng ta phải không ngừng đổi mới, cả về tư duy, cách làm và mô hình để “sáng tạo” ra những không gian mới cho tăng trưởng kinh tế”, TS. Minh nêu rõ.
Thay mặt nhóm nghiên cứu, ông Nguyễn Ánh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM nêu những nội dung chính của Báo cáo “Phát triển kinh tế sáng tạo: Xu hướng, kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam”. |
Tiềm năng của kinh tế sáng tạo vô cùng lớn, thậm chí có thể nói là “không giới hạn”
Cho biết khái niệm kinh tế sáng tạo đã hình thành và không ngừng hoàn thiện trong hơn ba thập kỷ qua, bà Minh nhấn mạnh, lợi ích của kinh tế sáng tạo đã sớm được thực chứng ở nhiều quốc gia, kể cả các nước đang phát triển ở khu vực châu Á.
Thực tế những năm gần đây đã chứng kiến những bước phát triển nhanh và đóng góp vượt bậc của kinh tế sáng tạo, thể hiện ở khả năng tạo việc làm, kích thích đổi mới và đóng góp cho phúc lợi xã hội.
Về minh chứng cho lợi ích của kinh tế sáng tạo, thay mặt nhóm nghiên cứu, ông Nguyễn Ánh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM dẫn thống kê của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết, quy mô thị trường toàn cầu cho hàng hóa sáng tạo đã tăng trung bình 2,28%/năm trong giai đoạn 2011 – 2020 và tăng tới 16,56% năm 2021. Tổng xuất khẩu dịch vụ sáng tạo toàn cầu đã tăng trung bình 8,14%/năm trong giai đoạn 2011 – 2020.
Việc sử dụng các công nghệ mới trong Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mở ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế sáng tạo, nhiều phương thức mới để sản xuất, phân phối và tạo thu nhập từ nội dung. Các công nghệ đột phá đã giúp các ngành công nghiệp sáng tạo trở thành một lĩnh vực có thể đầu tư ở nhiều thị trường mới nổi. Số hóa cũng có thể tác động tích cực đối với việc bảo vệ tài sản sáng tạo.
Việt Nam đã nỗ lực tiếp cận các ngành công nghiệp và dịch vụ sáng tạo. Thống kê của UNCTAD cho thấy, Việt Nam đã xuất khẩu không ít hàng hóa sáng tạo.
Báo cáo của CIEM đã phân tích về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế sáng tạo ở Việt Nam.
Các điểm mạnh bao gồm: di sản văn hóa phong phú và đa dạng; dân số trẻ, năng động và thành thạo công nghệ; những thay đổi chính sách tích cực đối với các mô hình kinh tế mới.
Các điểm yếu bao gồm: hạn chế cố hữu về nguồn vốn, đặc biệt là trong các lĩnh vực sáng tạo truyền thống; thiếu nhiều kỹ năng liên quan đến kinh tế sáng tạo ở không ít nhóm chủ thể sáng tạo (đặc biệt là người trung niên và người cao tuổi, phụ nữ, các địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn…); những bất cập về kết cấu hạ tầng “cứng” và “mềm” cho phát triển kinh tế sáng tạo.
Việt Nam có những cơ hội quan trọng cho phát triển kinh tế sáng tạo, nhờ chuyển đổi số, sự phục hồi và vươn lên mạnh mẽ của ngành du lịch, thị trường trong nước có quy mô tương đối lớn, và hợp tác quốc tế.
Việt Nam cũng phải xử lý những thách thức liên quan đến cạnh tranh từ thị trường quốc tế, khả năng thích ứng trước tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ, và “sức ỳ” của thể chế.
Toàn cảnh Hội thảo |
Cần hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển kinh tế sáng tạo
Nghiên cứu của CIEM chỉ ra rằng, Việt Nam đã bước đầu có khung chính sách liên quan đến phát triển kinh tế sáng tạo. Các nhóm chính sách hiện có đã bao gồm cả các chính sách chung và chính sách cụ thể đối với một số ngành. Phạm vi chính sách hiện có là tương đối rộng, từ chính sách ưu đãi thuế, khoa học – công nghệ cho đến chính sách cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Một số chính sách, quy định đã được hoàn thiện và đáp ứng rất tốt yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế sáng tạo. Chẳng hạn, các quy định về bảo vệ sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã được hoàn thiện phù hợp với các cam kết quốc tế và các thông lệ quốc tế tốt nhất, qua đó giúp tạo động lực và sự yên tâm cho các chủ thể phát huy sức sáng tạo và tài sản trí tuệ trong nền kinh tế sáng tạo.
Tuy nhiên, chính sách cho kinh tế sáng tạo chỉ mới cụ thể ở một số ngành, song chưa điều chỉnh kịp thời phù hợp với bối cảnh mới của các ngành này, trong khi nhiều hoạt động sáng tạo còn thiếu khung chính sách, quy định pháp lý…
Thông qua khảo sát tại một số địa phương, Viện trưởng CIEM cho biết, hiện đang có các cách hiểu khác nhau về kinh tế sáng tạo, có nơi còn hiểu “đại khái” kinh tế sáng tạo giống với đổi mới, sáng tạo.
“Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm của cả các nước phát triển và các nước đang phát triển trong phát triển kinh tế sáng tạo, cụ thể trên các khía cạnh như tiếp cận phát triển kinh tế sáng tạo dựa trên nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của mô hình kinh tế này, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển kinh tế sáng tạo, thúc đẩy các điển hình tốt, hoàn thiện cơ sở lý luận và hệ thống thông tin về đo lường kinh tế sáng tạo, thu hút tài năng gắn với phát triển hệ thống giáo dục – đào tạo phục vụ kinh tế sáng tạo và phát triển các mạng lưới, cụm công nghiệp sáng tạo”, người đứng đầu CIEM lưu ý.
Kinh nghiệm quốc tế ở nhiều nước, trong đó có Cộng hòa liên bang Đức, đã cho thấy tư duy về kinh tế sáng tạo giúp hoàn thiện chính sách để các ý tưởng sáng tạo có đủ điều kiện, chu trình từ hình thành, sản xuất, cung ứng, phân phối và kể cả xuất khẩu, từ đó mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho nền kinh tế, lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp, và thu nhập cao hơn cho người lao động.
“Quan trọng hơn, đặt trọng tâm vào khai thác ý tưởng, sức sáng tạo của con người và bảo vệ tài sản trí tuệ từ quá trình sáng tạo, kinh tế sáng tạo đã cho thấy một tiềm năng vô cùng lớn, thậm chí có thể nói là “không giới hạn””, Viện trưởng CIEM chia sẻ.
Đưa ra các khuyến nghị nhằm phát triền kinh tế sáng tạo ở Việt Nam trong thời gian tới, ông Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh rằng, Việt Nam cần hoàn thiện khung chính sách vững chắc để nuôi dưỡng kinh tế sáng tạo, gắn với tạo không gian, động lực và sự yên tâm cho các chủ thể sáng tạo. Thứ hai, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ số. Thứ ba, tăng cường phát triển giáo dục và đào tạo kỹ năng. Thứ tư, thúc đẩy hợp tác và kết nối. Thứ năm, tiếp tục phát triển thị trường trong nước và quốc tế cho các sản phẩm sáng tạo của Việt Nam. Thứ sáu, tăng cường tính bền vững và trách nhiệm xã hội trong các doanh nghiệp liên quan tới sáng tạo./.