Chất lượng nguồn lao động dần được nâng lên
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước trong quý III/2024 là 52,7 triệu người, tăng 114,1 nghìn người so với quý trước và tăng 238,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,5 triệu người, tăng 210,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị đạt hơn 20,2 triệu người, chiếm 38,5% lực lượng lao động của cả nước; lực lượng lao động nữ đạt gần 24,6 triệu người, chiếm 46,8% (Bảng).
Bảng: Lực lượng lao động quý III và 9 tháng năm 2024
Đơn vị: Nghìn người
Quý II/2024 |
Quý III/2024 |
Ước tính 9 tháng năm 2024 |
Tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước |
||
Quý III/2024 |
9 tháng năm 2024 |
||||
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên |
52.540,8 |
52.654,9 |
52.529,3 |
238,8 |
210,6 |
Phân theo giới tính |
|||||
Nam |
27.881,3 |
28.061,6 |
27.932,9 |
46,5 |
88,9 |
Nữ |
24.659,5 |
24.593,3 |
24.596,4 |
192,3 |
121,7 |
Phân theo thành thị, nông thôn |
|||||
Thành thị |
20.240,6 |
20.401,1 |
20.239,6 |
813,9 |
736,5 |
Nông thôn |
32.300,2 |
32.253,8 |
32.289,7 |
-575,1 |
-525,9 |
Lực lượng lao động trong độ tuổi |
47.012,4 |
47.084,2 |
47.000,1 |
253,5 |
281,0 |
Phân theo giới tính |
|||||
Nam |
25.732,0 |
25.862,4 |
25.767,4 |
35,0 |
135,0 |
Nữ |
21.280,4 |
21.221,8 |
21.232,7 |
218,5 |
146,0 |
Phân theo thành thị, nông thôn |
|||||
Thành thị |
18.644,8 |
18.788,4 |
18.652,5 |
718,2 |
675,3 |
Nông thôn |
28.367,6 |
28.295,8 |
28.347,6 |
-464,7 |
-394,3 |
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Chất lượng nguồn lao động đang dần được nâng cao thể hiện ở tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý III/2024 là 28,5%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 28,1%, tăng 1,3 điểm phần trăm.
Lao động có việc làm quý III/2024 ước tính là 51,6 triệu người, tăng 114,6 nghìn người so với quý trước và tăng 244,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 20,0 triệu người; khu vực nông thôn là 31,6 triệu người. Tính chung 9 tháng năm 2024, lao động có việc làm là 51,4 triệu người, tăng 212 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 19,7 triệu người; khu vực nông thôn là 31,7 triệu người.
Nhìn chung, lao động có việc làm có xu hướng tăng, nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động có việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể, số lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) quý III/2024 là 33,0 triệu người, chiếm 63,9% trong tổng số lao động có việc làm và giảm 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,6%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động giảm
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2024 là 861,4 nghìn người, giảm 86,7 nghìn người so với quý trước và giảm 79,5 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2024 là 1,87%, cùng giảm 0,19 điểm phần trăm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước.
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động tính chung 9 tháng năm 2024 là 914,1 nghìn người, giảm 8,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,99%, giảm 0,03 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III/2024 là 2,24%, giảm 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,06 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,26%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý III/2024 là 7,75%, giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 8,33%; khu vực nông thôn là 7,44%, tỷ lệ này thường cao hơn tỷ lệ thất nghiệp chung do thanh niên có mong muốn tìm được công việc đúng với trình độ và có thu nhập cao.
Thu nhập bình quân của người lao động tăng, thu nhập của lao động nam cao hơn so với lao động nữ
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân của người lao động trong quý III/2024 là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 176 nghìn đồng so với quý trước và tăng 519 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam cao gấp 1,34 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ (8,7 triệu đồng so với 6,5 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị cao gấp 1,4 lần khu vực nông thôn (9,3 triệu đồng so với 6,6 triệu đồng).
Tính chung 9 tháng năm 2024, thu nhập bình quân của người lao động là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 7,4%, tương ứng tăng 519 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam là 8,6 triệu đồng/tháng; lao động nữ là 6,4 triệu đồng.
Thu nhập bình quân tháng tăng lên ở hầu hết các ngành kinh tế. Một số ngành ghi nhận tốc độ tăng khá như: ngành kinh doanh bất động sản; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; công nghiệp chế biến chế tạo.
So với quý trước, thu nhập bình quân tháng của người lao động quý III/2024 tăng lên không đồng đều ở các vùng kinh tế – xã hội trong cả nước. Trong đó, thu nhập của người lao động tại vùng Đồng bằng sông Hồng được cải thiện hơn với 9,1 triệu đồng, tăng 5,8% so với quý trước, cao hơn tốc độ tăng thu nhập bình quân của lao động tại vùng này của quý III/2023 (tăng 3,3%).
Thu nhập của người lao động tại một số tỉnh trong vùng có tốc độ tăng cao: Hà Nội là 10,7 triệu đồng, tăng 6,6% so với quý trước (tương ứng tăng 659 nghìn đồng); Nam Định là 7,6 triệu đồng, tăng 5,7% (tương ứng tăng 406 nghìn đồng).
Vùng Trung du miền núi phía Bắc có tốc độ tăng thu nhập bình quân của người lao động ở mức thấp, với 5,6 triệu đồng/tháng, tăng 0,82% so với quý trước (tương ứng tăng 45.000 đồng). Trong đó, một số tỉnh ghi nhận tốc độ giảm thu nhập bình quân tháng của người lao động, như: Sơn La là 3,6 triệu đồng, giảm 7,8% (tương ứng giảm 305.000 đồng); Lạng Sơn là 5,8 triệu đồng, giảm 4,9% (tương ứng giảm 298.000 đồng); Cao Bằng là 3,2 triệu đồng, giảm 3,5% (tương ứng giảm 114.000 đồng).
Ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê chỉ ra 3 hạn chế của thị trường lao động 9 tháng qua. |
3 hạn chế của thị trường lao động
Cơn bão Yagi đổ bộ vào miền Bắc trong tháng 9 vừa qua với sức tàn phá nặng nề được dự báo có khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình lao động và việc làm của nước ta. Tuy nhiên, ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê cho biết, nhìn chung tình hình kinh tế – xã hội của nước ta trong quý này vẫn duy trì xu hướng tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Sản xuất công nghiệp vẫn tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước. Nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được thúc đẩy góp phần giúp hoạt động thương mại, vận tải, du lịch, xuất nhập khẩu hàng hóa phục hồi và tăng trưởng. Thị trường lao động Việt Nam trong quý III năm 2024 không gặp nhiều biến động do hậu quả của thiên tai và những bất ổn trên thị trường thế giới. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý này là 1,87%, đều giảm 0,19 điểm phần trăm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước.
Ông Nam cũng chỉ ra 3 hạn chế của thị trường lao động Việt Nam 9 tháng năm 2024.
Một là, thị trường lao động vẫn tiếp tục xu hướng phục hồi, tuy nhiên chất lượng cung lao động còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Đến nay có khoảng 37,6 triệu người lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên (cả nước chỉ có khoảng 28,5% người lao động đã qua đào tạo, có bằng chứng chỉ).
Hai là, lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động phi chính thức làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng hơn ba phần năm tổng số lao động có việc làm của cả nước.
Ba là, theo báo cáo “Xu hướng việc làm toàn cầu cho thanh niên năm 2024” của ILO, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên toàn cầu năm 2023 là 13% và dự kiến sẽ giảm xuống mức 12,8% trong năm 2024 và 2025. Tại Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15-24 tuổi trong quý III năm 2024 ở mức 7,75%, thấp hơn so với mức trung bình của toàn cầu, nhưng vẫn duy trì mức cao. So với quý trước và cùng kỳ năm trước, tỷ lệ này giảm tương ứng là 0,26 điểm phần trăm và 0,11 điểm phần trăm. So với tỷ lệ thất nghiệp chung, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên luôn cao hơn.
“Do thanh niên là lực lượng trẻ, nên nhu cầu có việc làm cao hơn các lực lượng khác vì vậy họ bắt buộc tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, họ thường được trang bị các kiến thức tốt hơn với trình độ cao hơn nên họ có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn nên ko tham gia thị trường lao động, họ có thể không chấp nhận làm các công việc tạm thời thu nhập thấp, họ sẽ trì hoãn để cho đến khi tìm được công việc như ý”, ông Nam nói.