Chiến tranh tại Ukraine - Áp lực cho đà tăng trưởng Đông Á và Thái Bình Dương

Chiến tranh diễn ra tại Kiev/Ảnh: Sergei Supinsky

Báo cáo Cập nhật Tình hình Kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương: Đương đầu Bão tố do Ngân hàng Thế giới vừa công bố cho biết, chiến tranh tại Ukraine đang đe dọa tiến trình phục hồi không đồng bộ tại các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Á và Thái Bình Dương sau cú sốc COVID-19, theo Ngân hàng Thế giới. Chiến tranh diễn ra khi các nền kinh tế vẫn gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 kéo dài, chính sách thắt chặt tài chính của Hoa Kỳ, kết hợp với việc dịch COVID-19 tái bùng phát và chính sách Không-COVID tại Trung Quốc.

Những quốc gia nhập khẩu nhiên liệu quan trọng trong khu vực như Mông Cổ và Thái Lan, hoặc quốc gia nhập khẩu lương thực như các quốc đảo Thái Bình Dương, đang phải chứng kiến thu nhập thực giảm. Một số quốc gia có nợ lớn như Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Mông Cổ hoặc phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Malaysia và Việt Nam đang có nguy cơ với các cú sốc về tăng trưởng và tài chính toàn cầu.

Bà Manuela V. Ferro, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương nhận định: “Trong lúc các nền kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương vừa bắt đầu phục hồi sau cú sốc do đại dịch gây ra, chiến tranh tại Ukraine lại tạo thêm áp lực cho đà tăng trưởng”.

Mặc dù những quốc gia sản xuất hàng hóa hoặc có chính sách tài khóa thận trọng có thể được trang bị tốt hơn để đương đầu với những cú sốc này, tác động dội của những sự kiện này sẽ làm triển vọng tăng trưởng của hầu hết các quốc gia trong khu vực xấu đi. Tăng trưởng kinh tế được dự báo đạt tốc độ 5% trong năm 2022, giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 10/2021.

Nếu tình hình toàn cầu xấu đi và các quốc gia có các chính sách ứng phó yếu ớt, tăng trưởng có thể giảm chỉ còn 4%. Trung Quốc, quốc gia đóng góp đến 86% sản lượng của khu vực, được dự báo tăng trưởng 5% theo kịch bản cơ sở và 4% theo kịch bản xấu. Sản lượng của các quốc gia còn lại trong khu vực được dự báo tăng trưởng 4,8% theo kịch bản cơ sở và 4,2% theo kịch bản xấu. Theo kịch bản xấu, sẽ có thêm 6 triệu người trong khu vực vẫn bị kẹt dưới ngưỡng nghèo ở mức 5,50 USD/ngày trong năm 2022.

Chiến tranh diễn ra, điều kiện huy động vốn thắt chặt kết hợp với hoạt động kinh tế chững lại ở Trung Quốc có thể làm trầm trọng thêm những khó khăn hậu COVID. Nhiều doanh nghiệp trong khu vực đang gặp khó khăn, trong đó có trên 50% các doanh nghiệp cho biết bị nợ đọng trong năm 2021, sẽ phải tiếp tục đối mặt với những cú sốc mới về cung và cầu.

Các hộ gia đình, trong đó có nhiều hộ bị tái nghèo do đại dịch, phải tiếp tục chứng kiến thu nhập thực giảm hơn nữa khi giá cả tăng vọt. Các chính phủ mang nợ, với tỷ lệ nợ trên GDP tăng thêm 10 điểm phần trăm từ năm 2019, phải đối mặt với khó khăn trong việc hỗ trợ kinh tế. Lạm phát gia tăng, ít nhất sẽ tăng thêm 1 điểm phần trăm so với mức dự kiến trước đó riêng do tác động của cú sốc giá dầu, sẽ thu hẹp dư địa để thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng.

“Các cú sốc diễn ra liên tiếp có nghĩa là nỗi đau kinh tế ngày càng gia tăng của người dân sẽ bị cộng hưởng bởi năng lực tài chính ngày càng hẹp của chính phủ”, ông Aaditya Mattoo, Chuyên gia kinh tế trưởng phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương bày tỏ lo ngại.

Trước tình hình trên, báo cáo khuyến nghị bốn nhóm hành động chính sách. Cụ thể, thay vì kiểm soát giá cả và hỗ trợ toàn diện, cần áp dụng hỗ trợ có mục tiêu cho hộ gia đình và doanh nghiệp để vừa hạn chế nỗi đau do các cú sốc gây ra, vừa tạo dư địa đầu tư để kích thích tăng trưởng.

Đồng thời, các tổ chức tài chính cần được đánh giá sức chịu đựng để giúp xác định rủi ro tiềm ẩn sau quy định cho phép gia hạn thời gian trả nợ. Cải cách chính sách thương mại hàng hóa, và đặc biệt về thương mại các ngành dịch vụ đang được bảo hộ, sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng quá trình chuyển dịch trong thương mại toàn cầu.

Ngoài ra, cần cải thiện kỹ năng và đẩy mạnh cạnh tranh để tăng cường năng lực và động lực áp dụng công nghệ số mới ra đời./.