Cơ cấu lại nền kinh tế: Nhìn lại giai đoạn 2016-2021 và những định hướng giai đoạn 2025-2030
Trong 5 năm qua, cơ cấu lại nền kinh tế giúp củng cố vững chắc cân đối vĩ mô và kết cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng

NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ, ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG GIAI ĐOẠN 2016-2021

Giai đoạn 2016-2021, việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, hoàn thành cơ bản các mục tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, năng suất lao động (NSLĐ) được cải thiện, huy động vốn đầu tư phát triển tăng; quản lý nợ xấu, nợ công có nhiều tiến bộ, hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện; thể chế luật pháp, kinh tế, môi trường đầu tư, kinh doanh, xếp hạng năng lực cạnh tranh được cải thiện đáng kể. Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được tăng lên rõ rệt, từ đó tạo tiền đề thuận lợi cho những đổi mới và đột phá trong tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn tiếp theo. Trong đó, một số kết quả đạt được nổi bật như sau:

(1) Củng cố vững chắc cân đối vĩ mô và kết cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, đạt mức tăng khá trong những năm vừa qua, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Trong đó, bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt mức 6,01% (cao hơn mức bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015)[1]. Năm 2021, tốc độ tăng trưởng có xu hướng suy giảm và chỉ đạt 2,58% (Hình 1). Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một trong số rất ít quốc gia duy trì mức tăng trưởng dương trên thế giới.

Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2021 (%)

Cơ cấu lại nền kinh tế: Nhìn lại giai đoạn 2016-2021 và những định hướng giai đoạn 2025-2030
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2016-2021

Lạm phát tiếp tục tục được kiểm soát: Giai đoạn 2016-2020 lạm phát giảm từ mức 7,65% giai đoạn 2011-2015 xuống 3,14%; Lạm phát cơ bản bình quân tương ứng giảm từ mức 5,15% xuống còn 1,81%. Năm 2021, lạm phát vẫn được duy trì ở mức thấp và chỉ tăng 1,84% so với cùng kỳ năm 2020, đạt mục tiêu đề ra (Quốc hội giao chỉ tiêu 4%); lạm phát cơ bản chỉ tăng 0,81%.

Chất lượng tăng trưởng liên tiếp được cải thiện thông qua việc tăng NSLĐ và đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) trong GDP (Hình 2):

Giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng NSLĐ bình quân đạt 5,82%, cao hơn mức tăng 4,36% của giai đoạn 2011-2015. Năm 2021, mặc dù bị tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng NSLĐ vẫn đạt mức 4,71%.

Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, trên cơ sở ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn. Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt 45,57%[2], cao hơn mức 32,88% của giai đoạn 2011-2015. Năm 2021, đóng góp của TFP vào tăng trưởng tiếp tục được duy trì và đạt 37,13%.

Hình 2: Tốc độ tăng năng suất lao động, TFP giai đoạn 2011-2021 (%)

Cơ cấu lại nền kinh tế: Nhìn lại giai đoạn 2016-2021 và những định hướng giai đoạn 2025-2030
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2016-2021

(2) Các nhiệm vụ trọng tâm trong cơ cấu lại nền kinh tế được thúc đẩy thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực

Cơ cấu lại đầu tư công: Giai đoạn 2016-2020, thể chế đầu tư công từng bước được hoàn thiện. Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đầu tư công được nâng cao, dần khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản. Năm 2021, Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được xây dựng và được Quốc hội ban hành, bảo đảm nguyên tắc, thứ tự ưu tiên, thu hồi dứt điểm số vốn ứng trước kế hoạch đã được tổng hợp, báo cáo trong giai đoạn trước; hoàn thành các dự án chuyển tiếp[3], giảm số dự án khởi công mới so với giai đoạn trước[4], tiếp tục khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, bảo đảm tổng số dự án thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 dưới 5.000 dự án[5], giảm hơn một nửa so với giai đoạn 2016-2020; số vốn bố trí bình quân cho 1 dự án là 210 tỷ đồng, cao gấp 2,4 lần so với giai đoạn 2016-2020 (88 tỷ đồng/dự án). Cùng với đó, các giải pháp quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành được thực hiện, nâng cao ý thức, trách nhiệm của các bộ, cơ quan, địa phương trong việc bố trí vốn cho từng dự án cụ thể[6]. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy hiệu quả Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư công trong công tác giao, phân bổ, báo cáo, điều chỉnh kế hoạch, bảo đảm công khai, minh mạch trong đầu tư công.

Cơ cấu lại doanh nghiệp (DN) nhà nước (DNNN): Giai đoạn 2016-2020, cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh và thực chất hơn so với giai đoạn trước[7] và được thực hiện một cách công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, từ đó số lượng DNNN được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản Nhà nước đầu tư tại DN dần được hoàn thiện. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN được thành lập nhằm từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tổng giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước được bảo toàn và phát triển, tỷ lệ DNNN có lãi tăng, một số DNNN yếu kém đã trở lại hoạt động[8]. Năm 2021, cơ cấu lại DNNN tiếp tục được xác định là một nhiệm vụ quan trọng và tập trung chỉ đạo thường xuyên, liên tục với việc ban hành các văn bản pháp luật về tình hình hoạt động, sắp xếp và đổi mới DNNN.

Các mục tiêu cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) cơ bản hoàn thành. Giai đoạn 2021-2020, các ngân hàng cơ bản đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo quy định áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại Việt Nam[9]. Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý, tình trạng thao túng, chi phối ngân hàng cơ bản được kiểm soát. Hệ thống các TCTD đã được củng cố một bước, nâng cao hơn năng lực quản trị; xử lý nợ xấu tại các TCTD đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất, hiệu quả hơn[10]; lãi suất cho vay trung bình giảm, dòng vốn tín dụng chuyển dịch nhiều hơn vào các ngành sản xuất. Năm 2021, các giải pháp nhằm giám sát chặt chẽ các TCTD trong việc thực hiện phương án cơ cấu lại tiếp tục được triển khai nhằm xử lý nợ xấu phù hợp với diễn biến dịch bệnh Covid-19; tích cực nâng cao chất lượng tài sản, năng lực tài chính [11], tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh[12], tăng cường tính minh bạch trong hoạt động; tăng cường xử lý các quỹ tín dụng nhân dân yếu kém[13].

(3) Cơ cấu lại ngân sách nhà nước (NSNN) đã đạt được những thay đổi tích cực về quy mô và cơ cấu thu, chi ngân sách, góp phần củng cố nền tảng tài chính vĩ mô. Qua đó, tạo thêm dư địa để thực hiện các giải pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ DN và người dân dưới tác động của đại dịch Covid-19. Giai đoạn 2016-2020, cơ cấu thu bền vững hơn[14], tăng tỷ trọng thu nội địa[15]. Giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư[16]. Bội chi ngân sách từng bước được kiềm chế, cơ cấu lại theo hướng bền vững, giảm mạnh tỷ lệ nợ công từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống còn 56,8% GDP năm 2020, nợ chính phủ khoảng 50,8% GDP, nợ nước ngoài quốc gia khoảng 47,9% GDP (trong giới hạn an toàn theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội). Năm 2021, dịch bệnh Covid-19 đã tác động mạnh đến cơ cấu thu chi ngân sách, ước tính bội chi NSNN trong phạm vi dự toán khoảng 4% GDP; Nợ công đến cuối năm 2021 khoảng 43,7% GDP.

(4) Khu vực kinh tế tư nhân có những dấu hiệu phát triển tích cực, góp phần gia tăng vai trò của khu vực tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu vốn đầu tư trong tổng đầu tư toàn xã hội dịch chuyển tích cực: Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước giảm từ mức trung bình 39,04% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 34,34% giai đoạn 2016-2020, ước năm 2021 giảm còn 25,5%; Tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước tăng từ mức 38,26% giai đoạn 2011-2015 lên 42,7% giai đoạn 2016-2020, ước năm 2021 tăng lên 58,6%. Kéo theo sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn trung bình giai đoạn 2011-2015 đạt 6,14% lên mức trung bình 6,7% giai đoạn 2016-2020 và cải thiện tỷ trọng đóng góp vào GDP (Hình 3).

Hình 3: Cơ cấu vốn đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế phân theo khu vực kinh tế giai đoạn 2016-2021 (%)

Cơ cấu lại nền kinh tế: Nhìn lại giai đoạn 2016-2021 và những định hướng giai đoạn 2025-2030
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2016-2021

(5) Cơ cấu lại các ngành kinh tế được thực hiện theo hướng tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết, hình thành cơ cấu ngành, nội bộ ngành hợp lý hơn, thúc đẩy tăng năng suất:

Cơ cấu lại ngành công nghiệp: Cơ cấu ngành công nghiệp dịch chuyển theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP từ 14,3% năm 2016 lên ước khoảng 16,9% năm 2020. Năm 2021, dưới tác động nặng của dịch bệnh Covid-19, tăng trưởng khu vực công nghiệp – xây dựng vẫn đạt 4,05%, đóng góp 63,8% trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61% điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Cơ cấu lại ngành nông nghiệp: Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế trong bối cảnh khó khăn, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Năm 2021, tăng trưởng khu vực nông nghiệp đạt 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Sản xuất nông nghiệp có sự chuyển hướng tập trung vào những ngành có giá trị gia tăng cao hơn và có thị trường xuất khẩu đa dạng hơn. Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao xuất hiện, đầu tư của DN vào nông nghiệp gia tăng. Khoa học, công nghệ được ứng dụng rộng rãi hơn. Đóng góp của khoa học, công nghệ là trên 30% giá trị gia tăng của sản xuất nông nghiệp.

Cơ cấu lại khu vực dịch vụ được thúc đẩy theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm. Các ngành có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao được tập trung phát triển.

(6) Các loại thị trường được hình thành và phát triển. Quy mô và cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn. Thể chế phát triển thị trường quyền sử dụng đất từng bước được hoàn thiện. Thị trường lao động được tăng cường thông qua dự báo, kết nối cung – cầu lao động. Thị trường khoa học, công nghệ sôi động hơn, giá trị giao dịch và số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ tăng.

MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ, ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG GIAI ĐOẠN 2016-2021

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2021 tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như sau:

Một là, mô hình tăng trưởng có thay đổi, nhưng chưa rõ nét

Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn một số rủi ro, nền tảng vĩ mô chưa thực sự vững chắc, nền kinh tế có độ mở cao và phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu, dịch bệnh gây đứt gãy nguồn cung khiến việc kiểm soát lạm phát trong nước tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ phát triển chưa cân đối, vốn trung, dài hạn của nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào hệ thống ngân hàng. Tốc độ tăng NSLĐ còn thấp, nhất là NSLĐ nội ngành; tăng NSLĐ vẫn chủ yếu do tăng cường độ vốn, đóng góp của tiến bộ khoa học, công nghệ vào tăng trưởng NSLĐ còn thấp.

Tăng trưởng kinh tế và phát triển các ngành, lĩnh vực, nhất là khu vực công nghiệp, dịch vụ, gặp rất nhiều khó khăn, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19, đặc biệt là năm 2020 và 2021. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chưa đạt yêu cầu, trong đó khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng khoảng 40,95%, giảm so với năm 2020 (41,9%); khu vực nông nghiệp chiếm khoảng 12,36% GDP tương đương năm 2020; khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 37,38%, tăng so với năm 2020 (36,9%). Chất lượng tăng trưởng của các khu vực còn hạn chế. Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp[17]. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu[18]. Khu vực dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chịu tác động nặng nề nhất vì dịch bệnh Covid-19, đặc biệt là du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải.

Hai là, cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm (đầu tư công, DNNN, các tổ chức tín dụng) còn hạn chế, khó khăn

Tỷ lệ giải ngân thấp, công tác quản lý và thực hiện đầu tư công còn một số bất cập. Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư từ NSNN năm 2021 chỉ đạt 77,3% kế hoạch, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, gây lãng phí nguồn lực, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc xử lý vướng mắc đầu tư công chưa hiệu quả; Công tác triển khai thực hiện chưa quyết liệt, người đứng đầu ở một số nơi còn chưa sâu sát, thiếu đôn đốc, kiểm tra. Năng lực lập kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện còn nhiều bất cập, đặc biệt là năng lực về thẩm định, kiểm tra, giám sát, thi công; công tác thiết kế thi công, đấu thầu lựa chọn nhà thầu chậm; quy trình, thủ tục thanh quyết toán vốn đầu tư công còn bất cập…

Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN chậm, không hoàn thành kế hoạch. Công tác xử lý một số dự án, DN chậm tiến độ, kém hiệu quả vẫn còn hạn chế. Một số dự án đã duy trì vận hành sản xuất, có sản phẩm, giải quyết việc làm cho người lao động, nhưng còn nhiều khó khăn, lỗ lũy kế lớn; một số dự án còn dở dang hoặc dừng hoạt động. Một số dự án gặp vướng mắc về xử lý tài sản, tài chính, cơ cấu lại nợ, bán, thoái vốn, giải thể theo quy định của pháp luật do có liên quan đến vốn chủ sở hữu.

Việc xử lý các TCTD yếu kém còn hạn chế. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD có xu hướng tăng trong năm 2021, từ mức 1,69% (cuối năm 2020) lên 1,92% (cuối tháng 12/2021). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay, đầu tư ở mức 3,38%.

Ba là, khu vực kinh tế tư nhân còn chậm phát triển

DN trong nước chủ yếu có quy mô vừa, nhỏ, năng lực cạnh tranh còn thấp gặp rất nhiều khó khăn dưới tác động của dịch bệnh Covid-19 kéo dài. Trong giai đoạn 2016-2020, các DN tư nhân trong nước tăng trưởng khoảng 12%/năm. Tuy vậy, bộ phận quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là kinh tế cá thể chưa đạt tốc độ tăng trưởng tương xứng, dẫn tới tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong nước nói chung vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

Về số lượng DN, thực tế đã không đạt được mục tiêu có ít nhất 1 triệu DN hoạt động vào năm 2020. Năm 2021, số DN đăng ký thành lập mới giảm 13,4%, số DN ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 18%, số DN chờ làm thủ tục giải thể tăng 27,8% so với năm 2020. Cùng với đó, chi phí sản xuất tăng cao do giá nguyên liệu đầu, chi phí vận chuyển, logistics tăng và phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh. Nhiều DN bị gián đoạn sản xuất, giảm đơn hàng, thiếu hụt lao động, doanh thu giảm mạnh. Nhiều DN đã phải chuyển sản xuất, chuyển đơn hàng tạm thời.

Bốn là, một số thị trường hoạt động còn hạn chế, chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc

Năng lực của thị trường vốn còn hạn chế, đặc biệt là khả năng huy động và hấp thụ vốn chưa cao. Việc kết nối cung – cầu trên thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu[19]. Thị trường quyền sử dụng đất, đặc biệt đất nông nghiệp còn nhiều bất cập. Thị trường khoa học, công nghệ phát triển còn chậm, chưa thực sự là động lực để nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh.

VỀ TIẾP TỤC CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2021-2025, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030

Tình hình kinh tế trong nước và thế giới thời gian tới được dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, có khả năng tác động lâu dài đến nền kinh tế; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới.

Trong bối cảnh đó, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải được thực hiện với các mục tiêu cụ thể và các giải pháp quyết liệt hơn để hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển trong trạng thái bình thường mới trong và sau dịch bệnh Covid-19. Theo đó, các nội dung cần thực hiện gồm:

Thứ nhất, về quan điểm và mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cần quán triệt các điểm quan trọng sau đây:

– Tập trung khắc phục những hạn chế, hoàn thành cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm của kế hoạch giai đoạn 2016-2021, bổ sung các nhiệm vụ nhằm tận dụng các cơ hội (các mô hình kinh tế mới, như: kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, kinh tế xanh, kinh tế số…) và giải quyết tốt các vấn đề chiến lược để phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh mới. Cơ cấu lại nền kinh tế phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, được thực hiện đồng bộ, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa Trung ương với địa phương, là bước đi cần thiết để đổi mới mô hình tăng trưởng tiến tới dựa nhiều hơn vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

– Cơ cấu lại nền kinh tế cần được thực hiện thực chất, hiệu quả hơn nữa trên cơ sở củng cố và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành linh hoạt và phối hợp hài hòa, hiệu quả chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, phù hợp với điều kiện, lợi thế, trình độ phát triển của từng ngành, địa phương gắn với thực hiện 3 đột phá chiến lược và 6 nhiệm vụ trọng tâm theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng.

– Lấy hoàn thiện thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo làm đột phá, lấy cơ cấu lại không gian kinh tế, phát triển kinh tế đô thị, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết đô thị – nông thôn và vai trò dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn làm nhiệm vụ trọng tâm. Tháo gỡ những rào cản thể chế theo hướng vướng ở cấp nào, thì cấp đó khẩn trương chủ động, tích cực sửa đổi, hoàn thiện, cần thiết có thể thí điểm đối với những vấn đề mới.

– Huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, trong đó nguồn lực bên trong là chiến lược, cơ bản, lâu dài, quyết định, kết hợp chặt chẽ với nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá.

Thứ hai, tập trung hoàn thành các mục tiêu cơ cấu lại hệ thống các TCTD, NSNN, đầu tư công và tổ chức sự nghiệp công lập. Theo đó, cần:

Nâng cao nội lực của hệ thống các TCTD trên cơ sở hoạt động minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, an toàn, hiệu quả, dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế.

Tiếp tục cơ cấu lại NSNN, nợ công, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và chủ động của ngân sách địa phương, hiệu quả, an toàn và bền vững, góp phần củng cố nền tảng vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.

Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi quy định pháp luật về đầu tư công theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phân công, phân nhiệm bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả; giải quyết triệt để những quy định của pháp luật về đầu tư công còn vướng mắc, chồng chéo trong quá trình thực hiện trong tất cả các khâu của quy trình quản lý đầu tư công. Cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa nguồn lực xã hội trong cung ứng dịch vụ công, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển.

Thứ ba, phát triển các loại hình thị trường, nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực, cụ thể là:

– Phát triển thị trường tài chính theo hướng đảm bảo sự lành mạnh, bền vững, cân bằng giữa thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ, để thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, giảm dần sự phụ thuộc vào vốn tín dụng ngân hàng; tăng cường tính công khai, minh bạch; đa dạng các định chế tài chính; linh hoạt đáp ứng nhu cầu đa dạng và thúc đẩy đổi mới sáng tạo của nền kinh tế.

– Phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất hoạt động dựa trên các nguyên tắc, quy luật của thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho quá trình phát triển đất nước.

– Phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, liên thông, kết nối chặt chẽ cung – cầu, đảm bảo huy động và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, dịch chuyển lao động, phân bố hợp lý lao động theo vùng, ngành; phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế, nhu cầu của thị trường lao động, góp phần nâng cao NSLĐ và năng lực cạnh tranh quốc gia.

– Phát triển mạng lưới các tổ chức trung gian, kết nối cung cầu, thúc đẩy giao dịch công nghệ và thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, nâng cao chất lượng và mức độ phong phú của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đổi mới sáng tạo của DN.

Thứ tư, phát triển lực lượng DN, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực nội tại và tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế, khai thác hiệu quả hội nhập quốc tế; tăng cường kết nối khu vực tư nhân với khu vực DN FDI, DNNN. Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN góp phần thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DN Việt Nam; Phát triển lực lượng DN tư nhân lớn mạnh dựa trên ứng dụng và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước, khu vực và toàn cầu; Phát huy vai trò của DN FDI trong nâng cấp chuỗi giá trị, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gắn với liên kết và phát huy nội lực của nền kinh tế.

Thứ năm, tập trung thực hiện cơ cấu lại không gian kinh tế, phát triển kinh tế đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, kết nối vùng, kết nối thành thị – nông thôn nhằm khai thác, phát huy tốt hơn lợi thế, tiện ích đô thị (về hạ tầng, nhân lực, thông tin, dịch vụ, tiện ích đời sống…) để đổi mới mô hình tăng trưởng, gia tăng lợi ích lan tỏa theo vùng. Theo đó, các đô thị lớn cần tập trung vào đổi mới sáng tạo, phát triển những ngành nghề có giá trị gia tăng cao, trở thành các trung tâm tài chính, dịch vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tăng cường vai trò hạt nhân của các đô thị lớn, kết nối với các địa phương nhất là các vùng kinh tế trọng điểm để nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh của cả vùng, từ đó tạo động lực tăng trưởng mới.

Thứ sáu, nâng cấp chuỗi giá trị các ngành dựa vào ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, tăng cường thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo đó, cần lưu ý:

– Tập trung cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng.

– Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng hình thành cơ cấu hợp lý theo vùng, ngành và sản phẩm, phù hợp với giai đoạn công nghiệp hóa mới của đất nước; từng bước đảm bảo năng lực sản xuất quốc gia có tính tự chủ, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

– Cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo hướng nâng cấp chuỗi giá trị, phát triển những ngành có lợi thế, có giá trị gia tăng cao; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, phát triển các loại hình dịch vụ số, nội dung số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số; đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử.

Thứ bảy, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cần tập trung, quan tâm nhiều hơn đến tổ chức thực hiện. Theo đó, cần xác định các nhiệm vụ cụ thể, phân công rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương gắn với việc phát huy tính chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phối hợp đi đôi với tăng cường đánh giá, kiểm tra, giám sát./.

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ (2021). Báo cáo số 422/BC-CP, ngày 18/10/2021 về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2022

2. Chính phủ (2021). Báo cáo số 424/BC-CP, ngày 18/10/2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021). Báo cáo số 9426/BC-BKHĐT, ngày 31/12/2021 của về tình hình kinh tế – xã hội năm 2021

4. Tổng cục Thống kê (2021). Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV và cả năm 2021

5. Tổng cục Thống kê (2017-2021). Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2016 đến 2020, Nxb Thống kê

[1] Giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng GDP bình quân đạt 6,8% đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5%-7% của Kế hoạch 5 năm 2016-2020), năm 2020, do tác động của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 2,91%, làm giảm mức bình quân chung giai đoạn 2016-2020 xuống còn khoảng 6,01%.

[2] Vượt mục tiêu đặt ra là đóng góp của TFP vào tăng trưởng 5 năm giai đoạn 2016–2020 đạt khoảng 30-35%

[3] Với tổng số vốn là 367.422,967 tỷ đồng.

[4] 2.219 dự án khởi công mới, chỉ bằng 52,7% số dự án khởi công mới trong giai đoạn 2016-2020.

[5] Giai đoạn 2016-2020 tổng số dự án là 11.100; giai đoạn 2011-2015 là gần 22.000 dự án.

[6] Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết số 45/NQ-CP, ngày 16/4/2021, Nghị quyết số 63/NQ-CP, ngày 29/6/2021; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 1082/CĐ-TTg, ngày 16/8/2021, theo đó đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, trong đó tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm.

[7] Lũy kế giai đoạn 2016 – tháng 12/2020, đã có 177 DN được phê duyệt phương án cổ phần hóa, với tổng giá trị là 443.503 tỷ đồng, (giá trị vốn nhà nước là 207.116 tỷ đồng); thoái 25.669 tỷ đồng, thu về 172.917 tỷ đồng (gấp 6,8 lần giá trị sổ sách). Tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn từ năm 2016 đến 8/2020 đạt khoảng 211.500 tỷ đồng, gấp 2,7 lần tổng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn của cả giai đoạn 2011-2015 (khoảng 78.000 tỷ đồng).

[8] So sánh giai đoạn cơ cấu lại DNNN 2016-2019 với giai đoạn cơ cấu lại DNNN 2011-2015, tổng giá trị tài sản tăng 149%, trang bị tài sản cho người lao động tăng 189%, doanh thu thuần tăng 110%, lợi nhuận trước thuế tăng 114%. Số lượng DNNN có lãi tăng từ 80,2% lên 81,2%.

[9] Đến tháng 9/2020, 77 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã áp dụng Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, trong đó 18 TCTD đã được NHNN chấp thuận áp dụng trước thời hạn; chỉ còn một số TCTD đề nghị được áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN.

[10] Giai đoạn từ 2016 đến thời điểm 31/7/2020, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 620,7 nghìn tỷ đồng.

[11] Đến cuối tháng 6/2021, vốn điều lệ của 04 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước (Agribank, Vietcombank, VietinBank, BIDV) đạt 148,8 nghìn tỷ đồng; tổng tài sản đạt 6.050,6 nghìn tỷ đồng; huy động vốn thị trường 1 đạt 5.079,0 nghìn tỷ đồng; dư nợ cho vay thị trường 1 đạt 4.473,4 nghìn tỷ đồng.

[12] Đến cuối tháng 6/2021, vốn điều lệ của các NHTM cổ phần đạt 329,15 nghìn tỷ đồng; tổng tài sản đạt 6.434,83 nghìn tỷ đồng; huy động vốn thị trường 1 đạt 4.952,13 nghìn tỷ đồng; dư nợ cho vay thị trường 1 đạt 3.980,98 nghìn tỷ đồng.

[13] Đã có 04 NHTM cổ phần tự nguyện tham gia xử lý 11 quỹ tín dụng nhân dân yếu kém, không có khả năng phục hồi và 12 NHTM cổ phần tự nguyện tham gia xử lý quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt.

[14] Thu NSNN bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 24,5% GDP (giai đoạn 2011-2015 là 23,6% GDP).

[15] Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN bình quân giai đoạn 2016-2019 khoảng 81,6%, đến năm 2020 dự kiến đạt trên 84% (giai đoạn 2011-2015 là 68,7%).

[16] Tỷ trọng dự toán chi đầu tư phát triển tăng từ mức 20,02% năm 2016 lên 26,9% năm 2020, tỷ trọng chi đầu tư phát triển thực hiện đạt 27%-28% tổng chi NSNN.

[17] Ngành dệt may hiện chủ yếu tham gia vào các khâu gia công (CMT) chiếm đến 60% và chỉ khoảng 5% xuất khẩu theo phương thức ODM (thiết kế trên ý tưởng có sẵn, sản xuất). Ngành điện tử hiện nay là ngành tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị toàn cầu, tuy nhiên, ngành điện tử Việt Nam (bao gồm cả các DN FDI) hiện đang đứng ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị là công đoạn lắp ráp và gia công sản phẩm.

[18] Các ngành công nghiệp chủ đạo, như: dệt may, da giày, điện tử Việt Nam nhập khẩu hơn 90% nguyên liệu đồng thời phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan.

[19] Tỷ lệ lao động qua đào tạo có chứng chỉ đến hết năm 2020 chỉ đạt 24,5% (Không đạt mục tiêu đặt ra).

TS. Trần Thị Hồng Minh

Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)

ThS. Nguyễn Văn Tùng,

Phó Trưởng ban, Ban Nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực, CIEM

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 2, năm 2022)