KHÁI QUÁT VỀ 3 TRỤ CỘT TRONG BASEL II

Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Basel II không chỉ là giải pháp giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro, sử dụng tối ưu các nguồn vốn, mà còn giúp các ngân hàng đứng vững và giảm thiểu các thiệt hại gây ra bởi các yếu tố biến động của nền kinh tế.

Đánh giá việc triển khai Basel II theo 3 trụ cột trong quản trị rủi ro tại Vietcombank
Vietcombank là một trong những ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam. Ảnh: Internet.

Basel II sử dụng khái niệm”Ba trụ cột” gồm:

Trụ cột thứ 1: Liên quan đến việc duy trì vốn bắt buộc. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của Tổng tài sản có rủi ro như Basel I, tuy nhiên yếu tố rủi ro được tính trên 3 yếu tố chính đó là rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay còn gọi là rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. Basel II yêu cầu các ngân hàng duy trì CAR tối thiểu là 4% đối với vốn cấp 1 bao gồm cổ phần phổ thông và dự trữ được công bố và 8% đối với vốn cấp 2 bao gồm dự trữ không được công bố. Theo chuẩn mực của Basel, thì ngân hàng có mức vốn tốt nhất khi CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8% và có mức thiếu vốn rõ rệt khi CAR > 6%, thiếu vốn trầm trọng khi CAR > 2%.

Trụ cột thứ 2: Liên quan đến việc hoạch định chính sách ngân hàng. Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những công cụ tốt hơn so với Basel I và đồng thời cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, như: rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro pháp lý và rủi ro thanh khoản.

Trụ cột thứ 3: Liên quan đến các yêu cầu với các ngân hàng phải thực hiện công khai, minh bạch thông tin theo nguyên tắc thị trường đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng phải công khai về cơ cấu vốn tự có, mức độ rủi ro hoạt động, chính sách quản lý rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro…

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BASEL II THEO 3 TRỤ CỘT TẠI VIETCOMBANK

Lộ trình áp dụng Basel II của Vietcombank

Nhằm thực hiện mục tiêu trở thành ngân hàng quản trị rủi ro tốt nhất, ngay từ năm 2014 Vietcombank đã triển khai dự án phân tích chênh lệch giữa yêu cầu của Basel II với thực trạng của Vietcombank. Trên cơ sở của phân tích dự án này, Vietcombank đã đưa ra lộ trình thực hiện với tổng cộng 82 sáng kiến nhằm đáp ứng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn vào năm 2018 và đáp ứng phương pháp nâng cao vào năm 2019. Như vậy, lộ trình triển khai áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro của Vietcombank được thực hiện theo 2 giai đoạn cụ thể:

Giai đoạn 1: Thực hiện thí điểm chương trình áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng từ tháng 02/2016 với mục tiêu đến năm 2018 Vietcombank hoàn thành cơ bản đáp ứng các yêu cầu của Basel II.

Giai đoạn 2: Từ năm 2019, Vietcombank tiến tới đáp ứng các yêu cầu của phương pháp nâng cao theo Basel II.

Để triển khai chương trình Basel II theo đúng mục tiêu đã đề ra, Hội đồng quản trị Vietcombank đã thành lập bộ máy triển khai bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban triển khai chương trình với Tổng Giám đốc làm Trưởng ban và các nhóm triển khai do các thành viên Ban lãnh đạo phụ trách trực tiếp điều hành. Chương trình có phạm vi sâu rộng với sự tham gia của hơn 160 nhân sự đến từ Hội sở chính và các chi nhánh.

Thực trạng kết quả áp dụng Basel II theo 3 trụ cột trong quản trị rủi ro tại Vietcombank

Trụ cột thứ nhất: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

Đánh giá việc triển khai Basel II theo 3 trụ cột trong quản trị rủi ro tại Vietcombank

Hình 1 cho thấy, CAR của Vietcombank giai đoạn 2015-2020 luôn đáp ứng được theo mức yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. 2015-2017 là giai đoạn Vietcombank sử dụng cách tính CAR theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, ngày 19/4/2015 ban hành “Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng”. Cách tính này mới đáp ứng các tiêu chuẩn theo Basel I với chỉ tiêu Vốn tự có bao gồm: vốn cấp 1 và vốn cấp 2, nhưng tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro mới chỉ tính đến rủi ro tín dụng. Theo đó, CAR của Vietcombank lần lượt 3 năm đều ở mức khoảng 11%. Đầu năm 2017, Vietcombank thực hiện tìm đối tác tại Singapore để bán vốn, đồng thời phát hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu nhằm mục đích tăng vốn và thúc đẩy CAR tăng.

Giai đoạn 2018-2020, Vietcombank áp dụng cách tính CAR theo Basel II. Vietcombank đã xây dựng chương trình tính tỷ lệ an toàn vốn tự động hàng tháng. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng đã ban hành Quy định về tỷ lệ an toàn vốn và quy trình vận hành chương trình tính CAR theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, trong cơ cấu vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và cấp 2; tổng tài sản có rủi ro được tính trên cả 3 góc độ: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Như vậy, nếu tính CAR theo Basel II, thì sự cách biệt giữa cách tính này so với cách tính thông thường là khác nhau khá lớn. Như vậy, vì tính theo Basel II, nên hệ số CAR của Vietcombank giảm xuống do tính thêm 2 rủi ro trong việc đảm bảo an toàn vốn. Mặc dù rủi ro thị trường không lớn, vì trạng thái danh mục kinh doanh của ngân hàng không quá lớn, nhưng rủi ro hoạt động là phần ảnh hưởng tương đối lớn tới hệ số CAR. Nếu tính thêm 2 phần rủi ro này, thì ước tính sẽ chiếm trung bình khoảng 1,5-2% hệ số CAR. Ví dụ CAR của Vietcombank giai đoạn 2017 theo cách tính thông thường ở mức 11,29% tương đương với tỷ lệ khoảng 9-10% theo cách tính của Basel II.

Như vậy, trong giai đoạn 6 năm (2015-2020), Vietcombank đã luôn đáp ứng được mức yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn do Ngân hàng Nhà nước quy định. Tuy nhiên, nếu theo quy định của Basel II (CAR > 10% mới là mức đảm bảo an toàn cao cho ngân hàng), thì Vietcombank mới chỉ tiệm cận gần ở mức quy định.

Trụ cột thứ hai: Công tác thanh tra giám sát

Trong thời gian qua, Vietcombank đã rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro, hoàn thiện các nội dung về quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động theo hướng tiếp cận với các chuẩn mực của Basel II. Vietcombank đã phối hợp với Ernst & Young để xây dựng lộ trình nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng. Thêm vào đó Vietcombank tiến hành thành lập bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt, chuyển từ quản lý rủi ro thụ động (quản lý sau đối với những hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro, đơn thuần thực hiện báo cáo các kết quả xảy ra) sang quản lý rủi ro chủ động (quản lý trước và trong quá trình hoạt động kinh doanh có phát sinh rủi ro, thực hiện giám sát trong quá trình hoạt động, cảnh báo những ngưỡng rủi ro, đưa ra các báo cáo rủi ro, phân tích rủi ro). Nhờ vậy, chất lượng tài sản của Vietcombank trong những năm qua luôn đạt tỷ lệ tốt.

Đánh giá việc triển khai Basel II theo 3 trụ cột trong quản trị rủi ro tại Vietcombank

Vietcombank luôn chú trọng tới quản trị rủi ro ngay cả trong giai đoạn kinh tế phát triển mạnh mẽ là chiến lược đúng đắn giúp Vietcombank kiểm soát thành công chất lượng tín dụng trong thời kỳ khó khăn. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu liên tục giảm qua các năm (Hình 2), từ 1,5% năm 2016 xuống 1,11% năm 2017 giảm dần, đến năm 2020 chỉ còn 0,62%. Đây là tỷ lệ nợ xấu lý tưởng trong giai đoạn hiện nay. Kết quả này tiếp tục ghi nhận Vietcombank là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất, chất lượng tài sản tốt nhất trong số các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.

Trụ cột thứ ba: Tính minh bạch thông tin

Công tác công bố thông tin theo nguyên tắc thị trường tại Vietcombank đã được thực hiện đều đặn và minh bạch hơn. Trong mấy năm gần đây, trước yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước về việc phải đảm bảo số liệu báo cáo đầy đủ hơn, chính xác hơn và kịp thời hơn, cũng như yêu cầu nội tại của chính các ngân hàng, công tác báo cáo thống kê tại Vietcombank đã được thực hiện một cách bài bản hơn. Hoạt động này được bộ phận chuyên trách tổng hợp báo cáo thống kê theo cả ngành dọc và ngành ngang.

Bên cạnh việc chú trọng quản lý số liệu báo cáo thống kê, Vietcombank cũng tập trung đầu tư công nghệ mới, tận dụng tối đa khả năng khai thác số liệu từ hệ thống, tăng tỷ trọng tổng hợp số liệu báo cáo thống kê một cách tự động, giảm khối lượng công việc làm bằng tay… Vì vậy, số liệu báo cáo thống kê phản ánh chính xác hơn tình hình thực tế, hỗ trợ công tác quản lý điều hành một cách có hiệu quả hơn.

Những khó khăn khi áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro của Vietcombank

Trong quá trình tiếp cận Basel II, Vietcombank đã gặp những vấn đề khó khăn như sau:

Một, yêu cầu của Basel II về vốn cao: Mức độ đủ vốn là một trong những trụ cột quan trọng, hệ số an toàn vốn riêng lẻ theo Basel II của Vietcombank tại thời điểm 31/12/2020 là 9,66% đáp ứng yêu cầu tối thiểu theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù Vietcombank đã thực hiện đánh giá cả 3 rủi ro trọng yếu là: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường, nhưng vẫn cần xác định và tính toán mức vốn bổ sung cho rủi ro tập trung, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng. Thực tế cho thấy, mức vốn mà Vietcombank phân bổ cho các rủi ro trọng yếu tăng thêm khoảng 3%, cùng với đó việc kiểm tra sức chịu đựng về vốn qua các kịch bản stresstest cũng cho thấy, mức chênh lệch hệ số CAR của Vietcombank giữ kịch bản bình thường và kịch bản có diễn biến bất lợi là khoảng 0,7% điểm.

Để CAR tăng thêm 1%, thì vốn điều lệ phải tăng lên khoảng 8%-10%, đây thực sự là một bài toán khó với Ngân hàng. Thực tế, Vietcombank đã có những nỗ lực tăng vốn như phát hành khoảng 3% vốn điều lệ cho nhà đầu tư nước ngoài (GIC) và cổ đông hiện hữu (Mizuho) vào tháng 01/2019, mang lại nguồn thặng dư gần 5.000 tỷ đồng giúp vốn điều lệ của Vietcombank đạt 37.000 tỷ đồng, tuy nhiên cũng mới chỉ đạt 1/3 kế hoạch tăng vốn. Nếu không tăng được vốn trong thời gian tới, Vietcombank sẽ không đảm bảo được tỷ lệ an toàn theo quy định. Điều này ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.

Hai là, chi phí triển khai Basel II cao: Trên thực tế, không có mức chi phí chuẩn để thực hiện Basel II, do chi phí này phụ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động, nền tảng sẵn có của từng ngân hàng. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, mỗi ngân hàng phải có sự tính toán cho chi phí của từng giai đoạn thực hiện trong lộ trình áp dụng để không phát sinh quá lớn. Mặc dù đã có những tính toán hợp lý, nhưng chi phí để triển khai Basel II cũng gây ít nhiều khó khăn cho Vietcombank.

Ba là, khó khăn về cơ sở dữ liệu: Một trong những khó khăn với không chỉ riêng Vietcombank khi triển khai Basel II là ngân hàng cần có một cơ sở dữ liệu tốt, chính xác, có tính lịch sử tối thiểu từ 5 đến 7 năm và được cập nhật thường xuyên, cũng như một hệ thống quản lý thông tin bài bản, chuyên nghiệp. Vietcombank đứng trước khó khăn khi thống kê dữ liệu do các dữ liệu lịch sử được lưu giữ từ các kho dữ liệu khác nhau, như: trên hệ thống công nghệ ngân hàng lõi (Core-banking), Excel hay file hồ sơ… Điều này tạo ra sự không nhất quán từ các thông tin được đưa vào trong các báo cáo thống kê, phân tích và làm giảm tính chính xác của dữ liệu. Hơn thế nữa, có nhiều giai đoạn, dữ liệu chưa được cập nhật thường xuyên.

Bốn, nội dung của Basel khá phức tạp: Một trong những trở ngại lớn nhất trong việc tiếp cận các quy tắc thuộc Basel II là sự khác biệt về ngôn ngữ. Mỗi văn bản ban hành từ Basel bao gồm cả văn bản chính thức và văn bản bổ sung đều có độ dài từ 400 đến 500 trang, phần lớn là thuật ngữ chuyên ngành khó hiểu. Ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các văn bản của Basel với nhiều công thức phức tạp chưa gần gũi với hoạt động ngân hàng tại Việt Nam nói chung, Vietcombank nói riêng.

NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI

Triển khai ứng dụng Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và đầu tư lớn về tài chính, vì vậy đối với các ngân hàng đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức và đầu tư về thời gian triển khai. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa ngành tài chính ngân hàng với rất nhiều các loại hình dịch vụ mới, thì việc từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế cụ thể như Basel II là yêu cầu cấp thiết, nhằm tăng cường năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động, giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng nói chung và Vietcombank nói riêng; đồng thời, chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng cũng là cơ sở để các ngân hàng trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển, mở rộng thị trường hoạt động trong và ngoài nước.

Để có thể khắc phục các khó khăn, thách thức, trong thời gian tới, Vietcombank cần thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nhóm giải pháp tăng vốn

Để đảm bảo mức đủ vốn theo yêu cầu của Basel II trước tiên phải xuất phát từ chính ngân hàng. Theo đó, Vietcombank cần:

– Xây dựng kế hoạch huy động vốn trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để tăng cường quy mô vốn tự có.

– Tỷ lệ CAR của Vietcombank ở mức trên 9% chưa hẳn đã mang lại sự an toàn cho hệ thống, trong khi hầu hết ở các nước hệ số CAR của các ngân hàng thường ở mức 12%. Do vậy, Vietcombank nên tính toán việc không chi trả cổ tức, giữ lại toàn bộ lợi nhuận sau thuế. Biện pháp này hoàn toàn hợp lý bởi cổ đông phải là người có trách nhiệm trước tiên trong việc đảm bảo an toàn vốn cao cho ngân hàng của mình, khi ngân hàng thiếu vốn, thì cổ đông không được phân phối lợi nhuận.

– Có thể bổ sung vốn thông qua các nguồn khác, như: huy động thêm vốn chủ sở hữu từ các cổ đông hiện hữu, các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước hoặc huy động vốn từ bên ngoài bằng biện pháp phát hành cổ phiếu giúp tăng vốn cấp 1 và phát hành trái phiếu giúp tăng vốn cấp 2.

– Rà soát và nâng cấp chất lượng dịch vụ tài chính của ngân hàng theo hướng tăng dần các khoản thu từ dịch vụ, giảm chi phí hoạt động, giảm chi phí huy động…

Thứ hai, giải pháp khắc phục vấn đề chi phí triển khai Basel II

Việc thiết lập một hệ thống quản trị rủi ro, chi phí đầu tư cho hệ thống công nghệ, quản trị dữ liệu và thuê chuyên gia cao cấp tư vấn… khiến cho Vietcombank nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung phải đầu tư tài chính lớn làm chi phí hoạt động của ngân hàng tăng mạnh. Như vậy, trong giai đoạn triển khai ứng dụng Basel II, Vietcombank cần xây dựng kế hoạch sử dụng chi phí cho dự án được triển khai trong nhiều năm và thực hiện một số các biện pháp, như: tăng hiệu quả quản trị để giảm chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận ngoài lãi như thu phí dịch vụ…

Thứ ba, giải pháp khắc phục khó khăn trong vấn đề xử lý dữ liệu

Cơ sở dữ liệu tốt và đủ độ tin cậy là yếu tố căn bản để thực hiện triển khai Basel II thành công tại mỗi ngân hàng. Do vậy, Vietcombank cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu đảm bảo chuẩn hóa các thông tin được công bố, từ đó đẩy nhanh quá trình đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel II, giảm thiểu các rủi ro liên quan đến thông tin không minh bạch dẫn đến sai sót trong quá trình phân tích và đánh giá.

Thêm vào đó, Vietcombank cũng cần rà soát, chuẩn hóa lại dữ liệu, đặc biệt là các thông tin về khách hàng, tài sản đảm bảo cần phải được lưu trữ trong thời gian từ 3-5 năm và các dữ liệu nợ xấu phải được lưu trữ từ 5-7 năm.

Thứ tư, đào tạo và tuyển dụng nhân sự chất lượng cao phục vụ cho việc áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro

Con người là nhân tố quan trọng nhất bởi nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao thì việc ứng dụng các hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu hiện đại và mô hình phức tạp cũng không thể sử dụng hiệu quả nhất. Vietcombank là một trong những ngân hàng tại Việt Nam có lực lượng lao động chất lượng cao bậc nhất trong hệ thống, tuy nhiên để đưa các tiêu chuẩn khắt khe của Basel II ứng dụng vào công việc không phải là việc dễ làm. Chính vì vậy Vietcombank cần tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên trau dồi kiến thức và nâng cao kinh nghiệm. Hơn thế nữa, cần có những chính sách tuyển dụng nhân sự chất lượng cao và gắn bó lâu dài với ngân hàng để thực hiện dự án, do một dự án nói chung và dự án Basel II nói riêng cần khoảng thời gian dài, tối thiểu là 5 năm./.

Tài liệu tham khảo

1. Vietcombank (2015-2020). Báo cáo thường niên các năm, từ năm 2015, đến năm 2020

2. Nguyễn Đăng Dờn (2010). Giáo trình quản trị ngân hàng thương mại, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

3. Dương Thị Hoàn (2018). Áp dụng hiệp ước Basel II trong nâng cao chất lượng tín dụng tại các NHTM cổ phần Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán, 06, 48-55

4. Tô Ngọc Hưng và Phạm Quỳnh Trang (2018). Những vấn đề quan tâm để triển khai Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, 197, 1-7

NCS. Trần Thị Vinh Thương

Khoa Ngân hàng – Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 31 năm 2021)