Theo Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), sau hai năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA), tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng chứng nhận xuất xứ ưu đãi theo Hiệp định tăng cao. Đáng chú ý, 6 tháng năm 2022, tỷ lệ này đã tăng trên 32%, cao hơn gấp 4 lần so với tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong Hiệp định CPTPP.

Doanh nghiệp cần đón đầu xu hướng chọn hàng hóa xanh, sạch của Liên minh châu Âu
Ngày 1/8/2022 đánh dấu tròn 2 năm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực.

Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng trên 14%

Ngày 1/8/2022 đánh dấu tròn 2 năm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực.

Hiệp định EVFTA là một trong số ít những hiệp định về tiêu chuẩn rất cao mà chúng ta đã tham gia trong thời gian vừa qua, với tỷ lệ tự do hóa thuế quan về cơ bản trên 90 % trong vòng 7 năm thực hiện.

Trong giai đoạn đầu thực thi, mặc dù bối cảnh quốc tế không hoàn toàn thuận lợi, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đứt gãy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu và các doanh nghiệp Việt Nam, song tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng trên 14%.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong nửa đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường châu Âu tiếp tục tăng 15,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 28,61 tỉ đô la Mỹ. Và ở chiều ngược lại, nhập khẩu từ khu vực này của Việt Nam đạt 10,46 tỉ đô la, giảm 3%.

Đây cũng là một trong những hiệp định có tỷ lệ tận dụng ưu đãi cao nhất so với những hiệp định khác trong năm đầu tiên thực thi. Sang năm thứ hai, tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam thông qua giấy chứng nhận xuất xứ mà doanh nghiệp được cấp để tận hưởng ưu đãi khi hàng hóa đi vào EU khá cao.

Theo Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), 6 tháng đầu năm 2022, tỷ lệ này đã có tốc độ tăng cao, lên đến trên 32%, cao hơn khoảng hơn 4 lần so với tỷ lệ tận dụng ưu đãi trong Hiệp định CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương).

Theo ngành hàng, trong năm đầu tiên thực thi, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU tăng nhưng hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU lại giảm, ví dụ như mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện (giảm 27,9% so với năm 2020), hàng dệt may (giảm 15,2% so với năm 2020) và giày dép các loại (giảm 11,3%).

Tuy nhiên, sang năm thực thi thứ hai, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đã phục hồi và gia tăng đáng kể, với hàng dệt may tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước, gạo tăng 42,9%, hạt tiêu tăng 81,3%, thuỷ sản tăng 22,7%, máy móc thiết bị phụ tùng tăng 20,9%…

Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất là điện thoại các loại và linh kiện, máy tính và linh kiện, máy móc thiết bị phụ tùng, hàng dệt may, sắt theo các loại và sản phẩm từ sắt thép. Các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng lớn nhất là sắt thép và sản phẩm từ sắt thép (147%), hạt tiêu (81,3%), cà phê (62,7%), gạo (42,9%), hải sản (22,7%).

DN cần đón đầu xu hướng chọn hàng hóa xanh, sạch của EU

Sau 3 năm thực thi, biên độ ưu đãi, mức ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng mới đủ lớn để tạo động lực xuất khẩu mạnh hơn. Vì vậy, thời gian tới, Việt Nam cần tập trung đẩy mạnh công tác thực thi tốt hơn, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế vẫn phức tạp, xung đột vũ trang, một số nguyên nhiên vật liệu tăng giá làm giảm tổng cầu của thị trường EU.

Hiện nay, thị trường EU đang có xu hướng dịch chuyển rất mạnh mẽ sang tiêu dùng hàng hóa xanh, sạch và đáp ứng tiêu chuẩn về lao động, về môi trường… tức là họ không chỉ đơn thuần yêu cầu về giá cả, chất lượng mà còn quan tâm đến quy trình sản xuất hàng hóa đó như thế nào. Vì vậy, để đẩy nhanh thực thi EVFTA hiệu quả, doanh nghiệp cần đón đầu xu hướng này, nếu như thành công theo xu hướng này, giá trị thu được trong quá trình xuất khẩu sang EU sẽ lớn hơn rất nhiều.

Để tận dụng hiệu quả hơn Hiệp định EVFTA, điều quan trọng nhất là cần phải cung cấp thông tin đầy đủ cho cộng đồng doanh nghiệp có thể khai thác tốt nhất những quy định đã có. Bên cạnh đó, cần sự hỗ trợ mạnh mẽ để doanh nghiệp có thể tự lớn lên, tìm hiểu thông tin tốt hơn khi tham gia vào thị trường EU và vượt qua thách thức, rào cản về kỹ thuật, xu hướng tiêu dùng mới đang phát sinh ở thị trường EU./.