Press ESC to close

Hoàn thiện khung pháp lý về hợp tác giữa Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển theo Hướng dẫn của Tổ chức Hải quan thế giới

Bài viết phân tích thực trạng phối hợp giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý cảng biển tại Việt Nam.

Hoàng Thu Phương

Email:Hoangthuphuong@mof.gov.vn

Tóm tắt

Bài viết phân tích thực trạng phối hợp giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý cảng biển tại Việt Nam, có đối chiếu với “Hướng dẫn về hợp tác giữa Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển” do Tổ chức Hải quan Thế giới ban hành. Trên cơ sở phân tích định tính, bài viết chỉ ra những khoảng cách, hạn chế trong kết nối, chia sẻ thông tin, ứng dụng công nghệ hiện đại và thiếu cơ chế phối hợp trong chuyển đổi số. Từ đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng mô hình “cộng đồng cảng chung”, đẩy mạnh hợp tác công – tư, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hải quan, bảo đảm an ninh chuỗi cung ứng và tạo thuận lợi thương mại.

Từ khóa: Hải quan, cảng biển, cơ chế hợp tác, WCO, khung pháp lý

Summary

The article analyzes the current state of coordination between Viet Nam’s Customs authorities and port authorities, with reference to the Guidelines on Cooperation between Customs and Port Authorities issued by the World Customs Organization. Using a qualitative approach, the article identifies gaps and limitations in connectivity, information sharing, the adoption of modern technologies, and the absence of coordination mechanisms in digital transformation. On this basis, it proposes solutions such as strengthening the legal framework, developing a Port Community System, and promoting public-private partnerships to improve customs control efficiency, ensure supply chain security, and facilitate trade.

Keywords: Customs, seaports, cooperation mechanism, WCO, legal framework

ĐẶT VẤN ĐỀ

Vận tải đường biển đóng vai trò huyết mạch, chiếm khoảng 80% khối lượng và trên 70% giá trị hàng hóa được lưu thông. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc thiết lập cơ chế hợp tác chặt chẽ, liền mạch và hiệu quả giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý tại cảng biển.

Hợp tác giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý cảng biển là quá trình phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước (Hải quan, Cảng vụ) và các doanh nghiệp kinh doanh, khai thác cảng biển nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý, tăng cường kiểm soát biên giới, thúc đẩy thương mại hợp pháp, đồng thời bảo đảm an toàn, an ninh cho toàn bộ chuỗi cung ứng.

Tháng 11/2023, Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) đã phối hợp với Hiệp hội Cảng biển Quốc tế (IAPH) ban hành “Hướng dẫn về hợp tác giữa Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển” (sau đây gọi là Hướng dẫn hợp tác). Hướng dẫn này nhấn mạnh việc thiết lập thể chế và khung hợp tác là tiêu chí hàng đầu. Khung pháp lý bao gồm các quy định về cơ quan điều phối, cơ chế chia sẻ dữ liệu, bảo mật thông tin và thúc đẩy chuyển đổi số trong các quy trình nghiệp vụ cảng biển.

Trên thực tế, tại Việt Nam, sự hợp tác giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý cảng biển còn nhiều hạn chế và khoảng cách so với khuyến nghị của WCO. Nguyên nhân chính xuất phát từ sự khác biệt về chức năng và đối tượng quản lý, sự chênh lệch về mức độ số hóa, đặc biệt là “khoảng trống” pháp lý điều chỉnh trực tiếp mối quan hệ này. Vì vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý về hợp tác giữa cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển theo Hướng dẫn hợp tác của WCO là một yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và gia tăng lưu lượng thương mại hàng hải.

KHUNG PHÁP LÝ CƠ BẢN ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA CƠ QUAN HẢI QUAN VÀ CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ CẢNG BIỂN

Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định riêng, đầy đủ và thống nhất về cơ chế phối hợp giữa cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển. Các quy định liên quan chỉ được đề cập gián tiếp, chưa đồng bộ trong Luật Hải quan (2014), Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, Nghị định số 59/2018/NĐ-CP và các Thông tư của Bộ Tài chính như Thông tư số 38/2015/TT-BTC, Thông tư số 39/2018/TT-BTC.

Công tác phối hợp hiện nay được chia thành các nhóm nhiệm vụ chính sau:

Phối hợp bố trí địa điểm kiểm tra và lưu giữ hàng hóa

Theo quy định, cơ quan Hải quan có trách nhiệm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp kinh doanh cảng thông qua Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan, bao gồm thông tin về hàng hóa dự kiến hạ bãi, container cần soi chiếu, tình trạng tờ khai hải quan. Dựa trên yêu cầu này, doanh nghiệp kinh doanh cảng phải bố trí địa điểm lắp đặt các phương tiện, thiết bị kỹ thuật phục vụ giám sát hải quan như hệ thống thiết bị kiểm tra container bằng tia X hay còn gọi là máy soi chiếu container. Đồng thời, doanh nghiệp kinh doanh cảng thông báo cho cơ quan Hải quan về vị trí kho bãi lưu giữ hàng hóa và bố trí địa điểm riêng để lưu giữ hàng hóa tồn đọng theo quy định Khoản 5 Điều 58 Luật Hải quan.

Phối hợp trong hoạt động giám sát hải quan tại cảng biển

Cơ quan Hải quan thực hiện giám sát bằng thiết bị kỹ thuật, tuần tra, kiểm soát trong khu vực cảng. Doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho, bãi phải đối chiếu thông tin từ hệ thống của cơ quan Hải quan với thực tế hàng hóa (số container, số niêm phong) trước khi cho hàng rời cảng. Chỉ khi nhận thông báo “Hàng đủ điều kiện qua khu vực giám sát” từ cơ quan Hải quan thì hàng mới được phép rời cảng, ngược lại; nếu có thông báo “Dừng đưa hàng qua khu vực giám sát”, doanh nghiệp kinh doanh cảng phải từ chối cho hàng rời cảng. Sau khi hàng ra khỏi cảng, doanh nghiệp kinh doanh cảng có trách nhiệm cập nhật thông tin lên hệ thống của Hải quan.

Phối hợp, cung cấp thông tin kết nối và trao đổi thông tin

Cảng vụ Hàng hải có trách nhiệm cung cấp thông tin về tàu thuyền vào/ra cảng và vị trí neo đậu cho cơ quan Hải quan và các cơ quan quản lý khác thông qua Cổng thông tin Một cửa quốc gia. Đây là một kênh phối hợp quan trọng để các bên liên quan nắm bắt thông tin một cách đồng bộ khi làm thủ tục cho tàu cập hoặc rời cảng trong quá trình kiểm tra, giám sát hàng hóa tại cảng biển.

Cơ quan Hải quan có trách nhiệm chia sẻ thông tin về tờ khai đã thông quan, giải phóng hàng để doanh nghiệp kinh doanh cảng thực hiện các nghiệp vụ liên quan. Ngược lại, theo Khoản 2 Điều 41 Luật Hải quan, doanh nghiệp kinh doanh cảng phải kết nối hệ thống thông tin quản lý hàng hóa của mình với hệ thống thông quan điện tử của cơ quan Hải quan. Ngoài ra, doanh nghiệp kinh doanh cảng phải chia sẻ hình ảnh từ hệ thống camera giám sát tại cảng biển để phục vụ công tác giám sát của cơ quan Hải quan.

Phối hợp giám sát hàng hóa qua Hệ thống VASSCM

Thông tư 39/2018/TT-BTC quy định chi tiết về việc phối hợp giám sát hàng hóa bằng phương thức điện tử thông qua Hệ thống quản lý, giám sát hàng hóa tự động (VASSCM). Theo đó, doanh nghiệp kinh doanh cảng có nghĩa vụ cập nhật thông tin “get-in” (hàng vào cảng) ngay sau khi xếp dỡ và thông tin “get-out” (hàng ra cảng) trong vòng 15 phút kể từ khi hàng rời đi. Cơ quan Hải quan sẽ sử dụng dữ liệu này, kết hợp với các nguồn thông tin khác từ hệ thống VNACCS/VCIS, để rà soát, phân tích thông tin, đồng thời phát hiện các hành vi vi phạm liên quan đến hàng hóa từ đó đề ra các biện pháp giám sát phù hợp.

Có thể thấy, các quy định về phối hợp giữa cơ quan Hải quan và cơ quan cảng biển hiện nay vẫn mang tính rời rạc, thiếu hệ thống và chưa tạo thành một khung pháp lý thống nhất.

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ PHÙ HỢP CỦA CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH SO VỚI HƯỚNG DẪN CỦA WCO

Đối chiếu với Hướng dẫn hợp tác của WCO, hệ thống pháp luật Việt Nam bộc lộ khoảng cách đáng kể:

Thiếu trung tâm điều phối chung tại cảng: WCO khuyến nghị thành lập một trung tâm điều phối chung giữa 2 cơ quan ngay tại cảng để tạo đầu mối thống nhất. Pháp luật Việt Nam hiện chưa có bất kỳ quy định nào về việc này, khiến mỗi bên vẫn hoạt động độc lập và thiếu cơ chế xử lý tình huống phát sinh một cách kịp thời.

Hạn chế trong kết nối và chia sẻ thông tin: Mặc dù đã có kết nối, việc chia sẻ dữ liệu hiện nay chủ yếu là một chiều (từ doanh nghiệp đến hải quan), chưa theo thời gian thực và chưa có cơ chế tích hợp tự động giữa hệ thống của 2 cơ quan. Hệ thống VNACCS/VCIS của Hải quan chưa được đồng bộ hoàn toàn với hạ tầng công nghệ thông tin của các cảng.

Chưa ứng dụng công nghệ hiện đại: Hướng dẫn của WCO nhấn mạnh việc ứng dụng các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (blockchain) và dữ liệu lớn (Big data) để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về việc ứng dụng các công nghệ này trong hoạt động kiểm tra, giám sát tại cảng biển.

Thiếu cơ chế phối hợp trong chuyển đổi số: Chưa có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa 2 cơ quan trong việc triển khai các nhiệm vụ chuyển đổi số, xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực chung hay đào tạo chuyên môn chéo giữa cán bộ 2 ngành.

Nhìn chung, hệ thống pháp luật còn manh mún, chưa bao quát đầy đủ yêu cầu hợp tác theo chuẩn quốc tế, gây thiếu chắc chắn pháp lý và giảm hiệu quả quản lý.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ HỢP TÁC GIỮA HẢI QUAN VÀ CƠ QUAN QUẢN LÝ CẢNG BIỂN

Trên cơ sở những phân tích về khung pháp lý hiện hành và khoảng cách so với khuyến nghị của WCO, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế hợp tác giữa cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển như sau:

Hoàn thiện, bổ sung các quy định hiện hành

Luật hóa trách nhiệm của các bên theo hướng bổ sung Điều 41 Luật Hải quan để quy định rõ trách nhiệm thanh toán chi phí vận chuyển hàng hóa đến địa điểm kiểm tra. Có thể quy định doanh nghiệp kinh doanh cảng là chủ thể thực hiện, còn chi phí do doanh nghiệp có hàng hóa hoặc cơ quan Hải quan chi trả tùy trường hợp cụ thể.

Cập nhật quy định về hàng tồn đọng: sửa đổi hoặc thay thế Thông tư số 203/2014/TT-BTC nhằm đảm bảo phù hợp thực tiễn, đồng thời nâng các quy định về trách nhiệm xử lý hàng tồn đọng lên các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn để tăng tính hiệu lực.

Bổ sung quy định về bảo mật thông tin: sửa đổi Khoản 2 Điều 41 Luật Hải quan để yêu cầu việc kết nối hệ thống thông tin phải tuân thủ chuẩn dữ liệu do Bộ Tài chính quy định và đảm bảo bảo mật thông tin.

Xây dựng khung pháp lý về “Cộng đồng cảng chung”

Giải pháp này nhằm thể chế hóa mô hình hợp tác hiện đại theo Hướng dẫn của WCO, bao gồm các nội dung cốt lõi sau:

Quy định về giao dịch điện tử và quản trị dữ liệu: cần có quy định đầy đủ về công nhận giá trị pháp lý của chữ ký số, hồ sơ điện tử; bảo vệ dữ liệu, quyền riêng tư và nghĩa vụ cung cấp dữ liệu chính xác, kịp thời của các bên tham gia.

Tích hợp công nghệ và an ninh mạng: nội luật hóa Khung tiêu chuẩn an ninh và tạo thuận lợi thương mại (SAFE) của WCO, cho phép Hải quan truy cập dữ liệu trước khi hàng đến (ACI) để phân tích rủi ro. Hệ thống phải tích hợp quản lý thuế, phí và hỗ trợ theo dõi toàn bộ vòng đời của tàu thuyền để giảm ùn tắc.

Xây dựng khung pháp lý về hợp tác công – tư (PPP)

Việc huy động các nguồn lực tư nhân trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số các quy trình nghiệp vụ về kiểm tra, giám sát hải quan tại cảng biển là điều cần thiết. Do đó, cần xây dựng một khung pháp lý rõ ràng về hợp tác PPP giữa cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan cảng biển, trong đó cần cụ thể hóa vai trò, quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân (khai thác cảng, logistics, công nghệ thông tin) khi tham gia đầu tư, phát triển tại cảng biển, kèm theo cơ chế giám sát minh bạch đối với hợp đồng PPP.

KẾT LUẬN

Hoàn thiện khung pháp lý về hợp tác giữa cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý cảng biển là điều kiện nền tảng cho sự phối hợp liền mạch giữa 2 cơ quan, góp phần xây dựng mô hình quản lý hải quan hiện đại, minh bạch và hiệu quả. Từ đó, đảm bảo mục tiêu kép về tạo thuận lợi thương mại và tăng cường an ninh, an toàn cho chuỗi cung ứng hàng hải, đồng thời góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược của quốc gia về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ Ngọc Phan (2021). Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu bằng máy soi container qua cảng biển Việt Nam. Đề tài khoa học cấp Tổng cục Hải quan.

2. Nguyễn Quốc Huy (2024). Giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bằng container qua cảng biển trong bối cảnh chuyển đổi số. Đề tài khoa học cấp Tổng cục Hải quan, Tổng cục Hải quan, tr.48.

3. Port community systems (2025). the role of customs-port cooperation in implementing a pcs. Public disclosure authorized.

4. Trần Văn Anh (2023). Hoạt động kiểm soát hải quan đối với hàng hóa quá cảnh tuyến Việt Nam Lào qua cảng biển miền trung giai đoạn 2021-2030. Đề tài khoa học cấp Tổng cục Hải quan.

5. WCO (2023). Guidelines on Cooperations between Customs and Port authorities. https://www.wcoomd.org/media/wco/public/global/pdf/topics…operation-between-customs-and-port-authorities_en.pdf?db=web.

Ngày nhận bài: 5/8/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 25/9/2025; Ngày duyệt đăng: 2/10/2025

Nguồn: Kinh tế và Dự báo