Đó là nhận định của GS. TS. Trần Thọ Đạt, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, Thành viên Hội đồng biên tập Tạp chí Kinh tế và Dự báo tại “Diễn đàn dự báo kinh tế Việt Nam 2022-2023: Kịch bản tăng trưởng và triển vọng một số ngành kinh tế chính”, ngày 12/5. Diễn đàn do Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức.

Kinh tế số - Động lực tăng trưởng mới tại Việt Nam
“Điều kiện cơ bản để thoát bẫy thu nhập trung bình, thì phải gia tăng năng suất. Kinh tế số là tác nhân quan trọng để tăng năng suất”, ông Đạt nhận định

Kinh tế số tạo ra dư địa phát triển mới của Việt Nam

Lý giải vì sao nói kinh tế số tạo ra dư địa mới, vị chuyên gia này cho biết, dữ liệu số là đầu vào của nền kinh tế do con người tạo ra chứ không phải dựa vào tài nguyên.

Tại sao nói kinh tế số là động lực tăng trưởng quan trọng nhất hiện nay, ông Đạt cho biết, trong bối cảnh khó khăn, dự báo về GDP liên tục giảm, thì dự báo kinh tế số lại liên tục tăng.

Cụ thể, các dự báo mới nhất của kinh tế có chiều hướng điều chỉnh giảm ở phạm vi toàn cầu và khu vực trong bối cảnh 2 năm đại dịch và tương lai, thế nhưng kinh tế số liên tục có sự tăng trưởng cao, có chiều hướng gia tăng.

“Điều kiện cơ bản để thoát bẫy thu nhập trung bình, thì phải gia tăng năng suất. Kinh tế số là tác nhân quan trọng để tăng năng suất”, ông Đạt nói.

Theo ông Đạt, để trở thành 1 nền kinh tế có khả năng cạnh tranh cao, Việt Nam phải nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn lực, kinh tế số là nguồn lực giúp tăng trưởng năng suất lao động, là động lực tăng trưởng quan trọng nhất.

Mô hình kinh tế số truyền thống của Việt Nam dựa trên các yếu tố đầu vào truyền thống là lao động, khoa học công nghệ, nhưng dữ liệu là thay đổi toàn bộ, làm thay đổi nguyên lý kinh tế.

Kinh tế số sẽ giúp Việt Nam thay đổi thứ hạng trên thế giới. Khủng hoảng Covid-19 đã góp phần chuyển đổi nhanh trong kinh tế số ở Việt Nam. Theo báo cáo kinh tế số của Google, Temasek và Bain Economy, tổng giá trị giao dịch kinh tế số của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 220 tỷ USD vào năm 2030, đứng thứ 2 Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia.

Vào năm 2030, nền kinh tế Việt Nam sẽ có quy mô tăng trưởng hơn 600 tỷ USD, theo dự báo trên thì quy mô kinh tế số sẽ chiếm 30% GDP (trùng với mục tiêu Đại hội Đảng đã đề ra).

Dự báo trong giai đoạn từ năm 2021-2025, 1 số ngành tiêu biểu trong kinh tế số thì thương mại điện tử sẽ tăng trưởng 32%, vận tải và thực phẩm tăng 24%; du lịch trực tuyến tăng 44% và nội dụng nghe nhìn trực tuyến tăng 16%.

Tiềm năng tăng trưởng về kinh tế số ở Việt Nam là rất lớn. Kinh tế số ở Việt Nam đang chiếm 1,7%/năm trong GDP, doanh thu của ngành kinh tế số internet trên 20% cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân GDP quý I/2022.

Trong cả giai đoạn 2020-2030, trung bình mỗi năm, chỉ riêng kinh tế số đóng góp từ 6,88% – 16,50% trong 100% tốc độ tăng năng suất lao động tổng thể của cả nền kinh tế.

Đóng góp của kinh tế số là rất quan trọng đến năng suất và hiệu quả của nền kinh tế trong thập kỷ tới và là một động lực mới cho cải thiện nhanh chóng năng suất lao động.

Biểu đồ: Đóng góp của KTS đến 100% tăng trưởng NSLĐ tổng thể, 2020 – 2030

Đóng góp của kinh tế số đối với GDP, nếu phát triển kinh tế số của mức truyền thống thì kinh tế số sẽ góp phần gia tăng 0,38% tương đương 60,9 tỷ USD, nếu theo kịch bản xuất khẩu số, kinh tế số sẽ góp phần gia tăng 0,45% tương đương 66,9 tỷ USD.

Cần phải làm gì để thúc đẩy kinh tế số

Tuy nhiên, ông Trần Thọ Đạt cũng dẫn ra báo cáo mới đây, cho rằng mức độ sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam chỉ đứng ở mức trung bình, xếp thứ 70/141 quốc gia, với điểm đánh giá cũng ở mức trung bình: 12,06/25 điểm. Trong khi đó, Thái Lan đứng thứ 55 (với tổng điểm 13,21/25), Malaysia đứng thứ 38 với (18,31/25).

Ông Đạt chỉ rõ rằng, về mặt quyết sách và chiến lược, Việt Nam rất kịp thời, nhưng chúng ta vẫn còn những nhược điểm.

Thứ nhất, Việt Nam đang đi sau về kỹ năng số của nhóm dân số tham gia các hoạt động kinh tế – xã hội. Chuyển đổi số có thể làm mất đi 1/3 việc làm hiện có ở Việt Nam, đồng thời nó có thể tạo ra việc làm mới nhưng với những kỹ năng khác. Vì vậy, cần có được kỹ năng mới. Điều này đòi hỏi đầu tư cá nhân và tập thể của người lao động và doanh nghiệp, vai trò của nhà nước phải thay đổi.

Thứ hai, Việt Nam chưa có đủ doanh nghiệp theo đuổi những ý tưởng đột phá. Vì chu kỳ đổi mới sáng tạo bị rút ngắn trong nền kinh tế số, doanh nghiệp có thể bị lỗi thời rất nhanh (ví dụ: Blackberry hay Nokia). Trong bối cảnh đó, khu vực tư nhân tại Việt Nam cần duy trì lợi thế, với thử thách là cạnh tranh.

Thứ ba, khả năng truy cập thông tin và dữ liệu chính là hàng hóa công cộng theo định nghĩa vì lợi ích chia sẻ thông tin lớn hơn rất nhiều so với chi phí thu thập thông tin.

Để thay đổi điều này, cần cải thiện về thu thập và cho phép mọi người truy cập thông tin, đồng thời cân đối giữa bảo mật cá nhân và an ninh.

Ông Đạt đề xuất Chính phủ cần có những hành động, như: chia sẻ dữ liệu công trực tuyến; phát triển khả năng tương tác liên thông giữa các cơ sở dữ liệu; khuyến khích khu vực tư nhân thu thập và chia sẻ dữ liệu khi các nền tảng và công cụ số mới làm giảm độc quyền của Nhà nước; Bộ chỉ số đo lường kinh tế số và công bố định kỳ.

Trọng tâm chính sách kinh tế số, theo chuyên gia này gồm có 5 trọng tâm: (1) Bộ chỉ số đánh giá toàn diện cấu trúc kinh tế số của cả nước, ngành/tỉnh; (2) Đánh giá thực trạng theo các cấu phần kinh tế số; (3) Đặt ra mục tiêu cụ thể phát triển kinh tế số, chú ý liên kết vùng. Không thể để 63 tỉnh thành lại dàn hàng ngang; (4) Xây dựng các kịch bản phát triển kinh tế số gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (5) Cần tính đến khả năng về nguồn lực và khung thời gian thực hiện.

“Với việc đưa ra 2 quyết định quan trọng, đặc biệt là Quyết định số 411/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia về kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 sẽ là động lực để thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong năm 2025 và 2030”, ông Đạt kỳ vọng./.