Theo Bộ Tài chính, việc Moody’s nâng hạng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên mức Ba2 phản ánh đánh giá của tổ chức này về sức mạnh kinh tế ngày càng được tăng cường và khả năng chống chịu của Việt Nam trước các cú sốc vĩ mô bên ngoài được ghi nhận là tốt hơn so với các nước cùng mức xếp hạng tín nhiệm thể hiện hiệu quả chính sách được cải thiện.

Moody’s đánh giá nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, đa dạng hóa xuất khẩu và khả năng tiếp tục thu hút dòng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất chế biến chế tạo. Kết quả nâng hạng cũng phản ánh nền tảng tài khóa vững chắc được hỗ trợ bởi chi phí vay được kiểm soát ở mức hợp lý, điều hành chính sách tài khóa cẩn trọng và thanh khoản của danh mục nợ Chính phủ được cải thiện. Điều này cũng phản ánh xu hướng Chính phủ chuyển đổi dần từ vay ưu đãi nước ngoài sang huy động vốn vay trên thị trường trong nước với chi phí thấp và kỳ hạn dài hơn.

Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam lên Ba2 với triển vọng Ổn định
Moody’s đánh giá nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, đa dạng hóa xuất khẩu và khả năng thu hút vốn FDI

Theo đánh giá của Moody’s, sức mạnh kinh tế của Việt Nam được củng cố bởi năng lực cạnh tranh ngày càng nâng cao và việc tham gia ngày càng sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực cạnh tranh tăng trong khu vực sản xuất chế biến chế tạo của Việt Nam thể hiện hiệu quả vượt trội so với các quốc gia cùng mức xếp hạng trong khu vực và đã góp phần cải thiện thu nhập ngày càng tăng của người dân. Việc Việt Nam tham gia vào nhiều hiệp định thương mại song phương và khu vực đã khẳng định vị thế ngày càng mở rộng trong chuỗi giá trị toàn cầu. Moody’s đánh giá các hiệp định thương mại tự do này sẽ giúp cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam đối với danh mục hàng hóa với giá trị gia tăng thấp hơn, đồng thời củng cố vững chắc vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng đối với mặt hàng công nghệ với giá trị gia tăng cao.

Hiệu quả thực thi chính sách tài khoá của Việt Nam được Moody’s ghi nhận là một trong những yếu tố chính đóng góp vào quyết định nâng hạng. Chính phủ đã triển khai kế hoạch tài chính ngân sách trung hạn, tập trung huy động vốn trong nước từ các nhà đầu tư tổ chức với chi phí thấp, kỳ hạn dài và tiếp tục duy trì thành quả kiểm soát tỷ lệ nợ trên GDP ổn định, thấp hơn tỷ lệ các năm trước và dưới mức trần 60%, trong khi vẫn điều hành chính sách tài khoá linh hoạt để hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Trong hoạch định chính sách tài khóa, Chính phủ cũng chú trọng đưa ra các giải pháp căn cơ hướng tới xử lý các thách thức trong dài hạn như nâng cao khả năng thích ứng với nguy cơ biến đổi khí hậu, đầu tư vào giáo dục và đào tạo nghề nhằm nâng cao năng suất lao động và tạo công ăn việc làm trong những ngành nghề với giá trị gia tăng cao hơn. Đây là những yếu tố được Moody’s đánh giá cao.

Trong bối cảnh tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến phức tạp dẫn đến hơn 30 lượt hạ bậc tín nhiệm trên thế giới trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam là quốc gia duy nhất ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và là một trong bốn quốc gia trên toàn thế giới, được Moody’s nâng bậc tín nhiệm kể từ đầu năm đến nay.

“Moody’s” nâng xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng Ổn định
Ông Trương Hùng Long – Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính

Để tiếp tục cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia, có hai yếu tố chúng ta sẽ phải quan tâm và làm tốt hơn, đó là sức mạnh về thể chế, quản trị và các cải cách của khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước để giảm thiểu rủi ro có thể có.

Ông Trương Hùng Long – Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính cho biết, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm nhằm đưa ra đánh giá của các nhà đầu tư quốc tế cũng như người cho vay về khả năng trả nợ của quốc gia đó tốt hay không. Vì vậy, việc Việt Nam được Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm đồng nghĩa với việc chúng ta được tổ chức này đánh giá tốt hơn so với trước đây, chi phí đi vay sẽ giảm đi bao gồm cả khu vực nhà nước và khu vực của doanh nghiệp. Đối với khu vực nhà nước, việc xếp hạng tín nhiệm đồng nghĩa với việc chúng ta đi huy động vốn bên ngoài sẽ rẻ hơn, kéo theo các doanh nghiệp dựa trên mức sàn của chính phủ cũng huy động được rẻ hơn, và các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào các khu vực của nền kinh tế nhiều hơn.

Cũng theo ông Trương Hùng Long, khi các quốc gia đánh giá chúng ta ở mức tín nhiệm cao hơn, thì sẽ sẵn sàng đầu tư vốn vào mình với sự tin tưởng là khả năng mất vốn sẽ thấp đi, nên sẽ tập trung vốn vào nhiều hơn với chi phí rẻ hơn. Vì vậy, việc Việt Nam được nâng xếp hạng tín nhiệm sẽ giúp huy động được các nguồn vốn cả trực tiếp và gián tiếp từ khu vực bên ngoài vào trong nước sẽ tốt hơn.

Có hai yếu tố quan trọng trong việc Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2. Thứ nhất là sức mạnh kinh tế thể hiện ở khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và khả năng chống chọi của nền kinh tế trước cú sốc từ bên ngoài của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua tốt hơn hẳn các nước đồng hạng. Thứ hai là nền tảng về chính sách tài khóa, chúng ta đã thực hiện chính sách tài khóa thận trọng, bội chi được giảm xuống, nợ công được kiểm soát chặt chẽ, tái cơ cấu nợ công hiệu quả, chi phí đi vay đang thấp xuống, chúng ta cũng đang chuyển dần từ vay nước ngoài là chính sang vay trong nước là chính. Đó là những yếu tố cơ bản để Moody’s đánh giá trong thời gian vừa qua và nâng xếp hạng tín nhiệm đối với Việt Nam.

Để tiếp tục cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia, ông Trương Hùng Long cho biết, có hai yếu tố chúng ta sẽ phải quan tâm và làm tốt hơn, đó là sức mạnh về thể chế, quản trị và các cải cách của khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước để giảm thiểu rủi ro có thể có. Đối với nghĩa vụ sức mạnh về thể chế và quản trị thể hiện ở tính hiệu lực, hiệu quả của các chính sách và thực thi chính sách, thể hiện ở việc công bố công khai kịp thời và đầy đủ các chỉ số về quản trị. Đối với cải cách khu vực ngân hàng thì phải nâng cao hiệu quả của thực thi chính sách tiền tệ, tăng khả năng giám sát khu vực ngân hàng và kiểm soát các chất lượng tài sản. Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước còn đang hiện hữu tỷ lệ tương đối lớn. Việc kiểm soát đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước và giảm thiểu nghĩa vụ nợ dự phòng từ khu vực doanh nghiệp nhà nước đối với nghĩa vụ của ngân sách sẽ là việc chúng ta phải quan tâm trong dài hạn.

“Việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia VN từ nay đến 2030, Chính phủ đã có một đề án để từng bước để tiến tới xếp hạng đầu tư của năm 2030. Tôi cho rằng với nền tảng về kinh tế như hiện nay, cùng với quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước, Chính phủ cũng như với các lộ trình đã được định hình, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu xếp hạng đầu tư”, ông Long nói./.