Mỗi năm, cứ đến Rằm tháng 7 Âm lịch, ai nấy từ già trẻ gái trai đều dâng lên một nỗi niềm trong lòng. Cũng không rõ mùi vị của nỗi niềm ấy thế nào, chỉ biết rằng nó cứ bâng khuâng, man mác và nằng nặng trong lòng.
Người ta nói, ấy là do tháng cô hồn – tháng của những linh hồn dưới địa phủ được dịp trở về nhân gian, hồn có chốn để về thì con cháu cúng kiếng, hồn lưu lạc thì vất vưởng bờ bụi, khắp nẻo đường. Chính vì thế mà màu trời tháng 7 Âm lịch mọi năm cứ đùng đục, bàng bạc một màu; nhiều khi cứ rưng rưng như muốn mưa.
Không khí như thế mà nhuộm thêm vài câu thơ trong bài Chiêu hồn thì nỗi niềm càng níu tâm can người ta xuống, thúc giục người ta phải làm một thứ gì đó. Cúng gia tiên. Cúng cô hồn. Miễn là giúp người ta vơi bớt đi nỗi niềm thương xót những linh hồn vất vưởng không nơi nương tựa ấy hoặc chỉ để tỏ lòng thảo kính với ông bà đã khuất dịp Vu lan báo hiếu này mà thôi.
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may, lạnh buốt xương khô.
Não người thay, buổi chiều thu,
Hoa lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng…
Tháng 7 Âm lịch ở đất Bắc chưa lạnh, đất Nam vẫn nóng hừng hực từng cơn, thế nhưng Rằm tháng 7 ở đất Bắc này vẫn mang một màu sắc thật khác. Đó là những cơn mưa ngâu. Mưa ào ào đến rồi tạnh, có lúc lại dai dẳng, cảm giác như bầu trời bị kéo sụp xuống, giơ tay là có thể chạm vào màu xám xịt no nước ấy. Thời tiết mỗi ngày một khác, không phải lúc nào đất Bắc cũng đón một Rằm tháng 7 với gió heo may, đôi khi cũng cúng lễ dưới trời nắng cháy.
Chẳng phải mê tín dị đoan hay mù quáng tự doạ nạt mình, người ta từ lâu, từ xa lắc xa lơ đã tin vào một tháng 7 Âm lịch mang màu sắc tâm linh, huyền bí và có chút thê lương.
Tháng nào trong năm cũng có ngày Rằm, khác biệt gì đâu?
Có đấy chứ. Rằm tháng Giêng nguyên tiêu, Rằm tháng 8 Tết Đoàn viên, tháng 3 có Tết Hàn thực, tháng 5 có Tết Đoan ngọ, tháng 9 có Tết Trùng dương,… Tất thảy 11 tháng trong năm đều có những ngày lễ Tết mang không khí vui vẻ, cầu mong điềm lành. Còn riêng tháng 7 Âm lịch, người ta cầu cho những vong hồn chìm sông lạc suối, côi cút còn nhiều nuối tiếc nhân gian, vất vưởng, lang thang hết cầu này quán nọ, đường nọ chợ kia được siêu thoát, hoặc chí ít cũng được no bụng khi được thí bỏ cho bát cháo nắm xôi, đốt cho manh áo tệp tiền.
Nhiều người đặt câu hỏi thời đại số hoá, kỷ nguyên văn minh công nghệ cao rồi, cúng cô hồn được gì chăng? Chẳng ai trực tiếp nhìn thấy những cô hồn ấy, nhưng niềm tin vào một thế giới bên kia chưa bao giờ tắt. Cho nên, dù người thân hay những linh hồn xa lạ, người ta cũng mong họ đến được thế giới bên kia một cách no đủ, không giày vò khổ đau như trong những hình thức hành hạ dưới địa phủ mà người ta nghe được.
Cúng cô hồn cũng đâu cần xa hoa, chũm choẹ. Người ta chỉ cần ít bơ bỏng, ít cháo loãng, vài tệp quần áo hàng mã xanh đỏ, ít hoa quả cùng tệp tiền vàng làm “lộ phí” cho những linh hồn vất vưởng có chút “dắt túi” khi trở về địa phủ.
Lễ Vu Lan và Rằm tháng 7 trong văn hóa Á Đông
Lễ Vu Lan và Rằm tháng 7 trong văn hóa Á Đông có ý nghĩa sâu sắc, đây là dịp để con cháu thể hiện lòng hiếu thảo và bày tỏ sự biết ơn đối với ông bà, cha mẹ. Lễ Vu Lan, còn được biết đến với tên gọi lễ báo hiếu, có nguồn gốc từ truyền thuyết Phật giáo kể về người con trai Mục Kiền Liên cầu nguyện cho mẹ mình thoát khỏi địa ngục. Tương truyền rằng, việc làm lễ cúng bái và bố thí trong ngày này sẽ giúp đỡ linh hồn tổ tiên và những người đã mất được siêu thoát, đồng thời mang lại phước lành cho người sống.
Trong khi đó, Rằm tháng 7 hay còn gọi là lễ Xá tội vong nhân, là ngày mà người dân Á Đông tin rằng cửa địa ngục mở ra, vong linh có cơ hội được siêu thoát, nên nhiều nghi thức cầu siêu được thực hiện. Ngày Rằm tháng 7 cũng được xem là dịp để mọi người làm các việc thiện như dâng lễ, phóng sinh, từ thiện… nhằm tích đức và cầu mong bình an cho bản thân và gia đình.
Nói chung, cả lễ Vu Lan và Rằm tháng 7 đều mang thông điệp về tình thân, lòng biết ơn và sự kết nối giữa thế giới người sống và thế giới tâm linh, phản ánh rõ nét nét đẹp trong tín ngưỡng và văn hóa Á Đông.
Phong tục cúng cô hồn là một phong tục truyền thống có từ lâu đời ở các nước Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Nguồn gốc của phong tục này có thể truy về những tín ngưỡng cổ xưa liên quan đến việc thờ cúng tổ tiên và tưởng nhớ người đã khuất.
Trong văn hóa Việt Nam, cúng cô hồn thường được tiến hành vào tháng 7 Âm lịch hàng năm, còn được gọi là tháng cô hồn hoặc tháng Ngâu, khi người ta tin rằng cửa từ địa ngục sẽ mở ra cho các vong hồn được tự do tạm thời trở về thế gian. Đây là thời điểm người sống thể hiện lòng hiếu đạo và lòng trắc ẩn bằng cách cúng bái và gửi những lễ vật cho các linh hồn không nơi nương tựa. Phong tục cúng cô hồn ra đời dựa trên niềm tin này và được thực hiện nhằm giúp đỡ những linh hồn cô đơn, thiếu thốn sự cung cấp trong âm giới với hy vọng rằng họ sẽ được siêu thoát và không quấy rối cuộc sống của người sống.
Phong tục cúng cô hồn ở mỗi đất nước có những nghi thức và phong tục khác nhau, nhưng điểm chung là việc dâng cúng thức ăn, vàng mã và các nghi lễ khác nhau nhằm mục đích an ủi và cầu nguyện cho các linh hồn. Ngày nay, tuy phong tục này vẫn được duy trì, nhưng cũng có nhiều biến thể và thích nghi theo đời sống hiện đại.
Cúng cô hồn đâu chỉ là một nghi thức tôn giáo mà còn là biểu hiện của lòng từ bi và lòng nhân ái. Cũng như đã nói, thông qua việc cúng cô hồn, người ta tin rằng họ không chỉ giúp đỡ những linh hồn mà còn có thể, giải tỏa cảm xúc “nằng nặng” của tháng 7 Âm lịch đồng thời đem lại sự bình yên và cầu mong may mắn cho gia đình và đất nước của mình.
Cách thức cúng cô hồn đã có nhiều thay đổi theo thời gian, phản ánh sự thích nghi và tiếp nhận các yếu tố mới trong xã hội. Trong xã hội hiện đại, việc duy trì và tái tạo phong tục này cho thấy sự nỗ lực của cộng đồng trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa.
Đặc biệt, thế hệ trẻ có những quan điểm đa dạng về phong tục này, từ việc tiếp tục thực hành đến việc cải tiến hay thậm chí là phê phán những hủ tục cũ không còn phù hợp.
Dù nói thế nào đi nữa, lễ Vu Lan và cúng cô hồn là các phần không thể thiếu trong quỹ đạo văn hóa tâm linh của người dân Việt Nam. Đây không chỉ là dịp để mỗi người con bày tỏ lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ mình, mà còn là cơ hội để mọi người chung tay giúp đỡ những linh hồn không nơi nương tựa theo góc nhìn tâm linh, qua đó thể hiện sự đoàn kết và lòng từ bi của dân tộc.
Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong việc thực hành các nghi lễ này ngày càng được chú trọng, nhằm bảo tồn bản sắc văn hóa đồng thời làm cho nó phù hợp với thế giới hôm nay. Điều này giúp cho thế hệ trẻ có thể hiểu và đánh giá cao giá trị của những phong tục này trong bối cảnh hiện đại.
Cần có những nỗ lực không ngừng trong việc giáo dục cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ, về giá trị văn hóa và ý nghĩa tâm linh của lễ Vu Lan và cúng cô hồn. Việc này không chỉ giúp duy trì truyền thống mà còn góp phần xây dựng một xã hội đầy lòng nhân ái và sự kính trọng đối với các giá trị tâm linh.