Chính phủ họp bàn với tinh thần “một chính sách nhỏ cũng có thể tạo tác động, hiệu quả lớn”

Chiều 30/7, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc thảo luận về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc thảo luận về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Ảnh: VGP

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhận định, thời gian qua, tình hình có nhiều khó khăn, thách thức hơn là cơ hội và thuận lợi trong bối cảnh quốc tế có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ; dịch bệnh diễn biến phức tạp ở nhiều nước; lạm phát tăng cao, đồng tiền của nhiều quốc gia mất giá; cạnh tranh chiến lược gay gắt.

Việc thay đổi định hướng chính sách ở nhiều nước làm thu hẹp thị trường, tác động đến các chuỗi cung ứng đã tác động tiêu cực đến nước ta trên nhiều lĩnh vực, nhất là xuất, nhập khẩu, giá xăng dầu, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao. Nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn, khả năng chống chịu thì có hạn, cho nên chỉ cần một biến động nhỏ ở bên ngoài có thể tác động lớn đến trong nước.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của người dân và doanh nghiệp, sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế, chúng ta đã phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong bối cảnh khó khăn để vừa bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy quan hệ với các nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn (về thu-chi, xuất-khập khẩu, năng lượng, lương thực-thực phẩm và lao động).

Trong năm 2022, GDP quý II tăng 7,72% (tốc độ cao nhất trong 11 năm qua), góp phần quan trọng vào mức tăng 6,42% của 6 tháng đầu năm. Đến thời điểm này, chỉ số giá tiêu dùng 7 tháng tăng 2,54% so với cùng kỳ năm trước; giá xăng dầu trong nước được đưa về mức trước khi xảy ra xung đột tại Ucraina; kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 432 tỷ USD…

Việt Nam đang triển khai Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội (với quy mô 340.000 tỷ – khoảng 4% GDP), tập trung vào y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng.

Đồng thời, tiếp tục triển khai các đột phá về thể chế, hạ tầng, nhân lực; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu, tạo nền tảng cho phát triển bền vững.

Cùng với đó, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên. Đối ngoại và hội nhập được đẩy mạnh, uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng lên. Tập trung xử lý các vấn đề cấp bách, phát sinh và những vấn đề tồn đọng, kéo dài, đạt nhiều kết quả tích cực. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tuy nhiên, Chính phủ xác định tình hình tiếp tục có khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi, do đó tuyệt đối không được chủ quan, lơ là. Tiếp tục phối hợp hài hòa, hợp lý, đồng bộ, chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác. Trong đó, thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, chắc chắn, hiệu quả; thực hiện chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, bảo đảm hiệu quả. Phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững.

Thủ tướng khẳng định, Chính phủ luôn cầu thị lắng nghe các ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý, các tổ chức quốc tế để chủ động phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời, khoa học, hiệu quả, với tinh thần “một chính sách nhỏ cũng có thể tạo tác động, hiệu quả lớn”, tất cả vì mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ngày càng hạnh phúc ấm no, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả.

Thủ tướng cũng cho biết, đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu chuyên đề về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

Áp lực và khó khăn, thách thức trong những tháng cuối năm 2022 ngày càng gia tăng

Tại cuộc họp, thay mặt Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Thứ trưởng trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đã trình bày những đề dẫn ban đầu về Đề án.

Thứ trưởng Phương chỉ rõ, từ năm 2020 đến nay, tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều diễn biến chưa từng có tiền lệ, vượt khỏi khả năng dự báo của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới; rủi ro, bất định ngày càng gia tăng, biến động về dịch bệnh, chính sách ngày càng nhanh.

“Nhưng kể từ đầu năm 2022 tới nay, tình hình càng trở nên khó khăn hơn, khi kinh tế thế giới chịu thêm tác động mạnh từ xung đột Nga – Ucraina, tiếp tục làm gián đoạn, hạn chế hơn nguồn, chuỗi cung ứng hàng hóa, đẩy giá cả tăng cao; lạm phát, lãi suất tăng; tăng trưởng kinh tế thấp, thậm chí tăng trưởng âm, suy thoái kinh tế…”, Thứ trưởng nói và chỉ rõ rằng, tình hình các nước lớn, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của Việt Nam chuyển dịch rất nhanh giữa các xu hướng đối nghịch.

Các xu hướng đối nghịch đó là từ tăng trưởng kinh tế cao năm 2021 sang tăng trưởng chậm lại, thậm chí có nguy cơ suy thoái nhẹ năm 2022 tại Mỹ, EU, Trung Quốc; từ xu hướng dịch bệnh Covid-19 dần được kiểm soát sang mất kiểm soát trong nửa đầu năm 2022 tại Trung Quốc… Đi cùng với đó là việc điều chỉnh chính sách nhanh nhưng rất khác nhau giữa các quốc gia và trong cùng một quốc gia nhưng giữa các thời điểm khác nhau…

Theo Thứ trưởng, áp lực và khó khăn, thách thức trong những tháng cuối năm 2022 ngày càng gia tăng. Trong đó, đáng chú ý là công tác quản lý giá, điều tiết sản xuất, cung – cầu đối với một số nhóm hàng hóa.

“Áp lực tăng giá ngày càng gia tăng khi lạm phát từ bên ngoài đã bắt đầu ảnh hưởng tới các hoạt động sản xuất trong nước, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đã xuất hiện tình trạng người dân hạn chế đầu tư mở rộng sản xuất, tái đàn, tái vụ do giá phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao”, Thứ trưởng nêu dẫn chứng.

Sản xuất công nghiệp gặp khó khăn do áp lực giá nguyên vật liệu đầu vào và chi phí vận chuyển tăng cao. Giá nguyên vật liệu xây dựng tăng đột biến trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư công, có tình trạng nhà thầu thi công cầm chừng để chờ giá vật liệu hạ nhiệt hoặc chuyển sang tìm kiếm công việc tại các dự án FDI, gây thiếu nhân công thực hiện các dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia.

Đặc biệt, vẫn còn chậm chễ trong giải ngân vốn đầu tư công, một số chính sách, giải pháp chậm triển khai, phần nào làm giảm hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế.

Rủi ro, bất định ngày càng gia tăng, chính sách phải thúc đẩy phục hồi nhanh và bền vững
Thủ tướng cũng cho biết, đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu chuyên đề về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững. Ảnh: VGP

“Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công từ đầu năm đến ngày 31/7/2022 đạt 34,47% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 đạt 36,71%)”, Thứ trưởng báo cáo và chỉ rõ, nhiều khó khăn, vướng mắc dẫn đến chậm trễ trong giải ngân, trong đó điểm nghẽn lớn nhất là sự chồng chéo giữa các quy định pháp luật chuyên ngành liên quan đến việc thực hiện dự án đầu tư công và hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng.

Cùng với đó, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản dễ bị tổn thương, tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức, có thể ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và kéo theo nhiều hệ lụy nếu có biến động xảy ra như tổ chức phát hành mất khả năng thanh toán.

“Trong khi đó, công tác quản lý thị trường còn nhiều vướng mắc; quy định về phát hành trái phiếu riêng lẻ chưa chặt chẽ; công tác quản lý nhà nước, sự phối hợp của các cơ quan liên quan chưa thực sự hiệu quả. Giá bất động sản tăng cao ở hầu hết các địa phương, hình thành mặt bằng giá mới, gia tăng áp lực đối với nhà nước, nhà đầu tư khi thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, tác động đến tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công”, Thứ trưởng nêu rõ.

Theo Thứ trưởng, dòng vốn FDI có chất lượng chưa cao, suy giảm từ năm 2020 đến nay, kéo theo nhiều khó khăn, thách thức về phát triển sản xuất trong nước, ổn định vĩ mô.

Dẫn số liệu FDI thời gian qua, Thứ trưởng cho biết, tổng vốn FDI đăng ký năm 2020, 2021 chưa lấy lại được quy mô của năm trước dịch 2019; tính chung 07 tháng đầu năm 2022 chỉ bằng 92,9% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó FDI đăng ký cấp mới chỉ bằng 56,5% so với cùng kỳ.

Chất lượng FDI chậm được cải thiện, thiếu các dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện đại, giá trị gia tăng cao, liên kết chặt chẽ và hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho khu vực trong nước.

“Điều này sẽ ảnh hưởng đến tiềm năng mở rộng sản lượng của khu vực FDI, khả năng đổi mới công nghệ của khu vực trong nước, cũng như có thể tác động đến cán cân thanh toán, khả năng dự trữ ngoại hối, tỷ giá … trong trung và dài hạn”, Thứ trưởng quan ngại.

Các thách thức khác là dịch Covid-19 cũng còn diễn biến phức tạp, có nguy cơ “dịch chồng dịch”…

“Nền kinh tế còn nhiều tồn tại, khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu dài hạn. Việt Nam đang ở nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, thách thức lớn đặt ra là phải duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, sớm vượt qua nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh.

Lạm phát tăng cao, trở thành thách thức vĩ mô hàng đầu đối với kinh tế thế giới

Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kinh tế thế giới phục hồi ngày càng chậm lại, khả năng xảy ra suy thoái ngắn hạn đang gia tăng. Lạm phát tăng cao, trở thành thách thức vĩ mô hàng đầu đối với kinh tế thế giới, nhiều khả năng trở thành vấn đề dai dẳng trong trung hạn; các nước tiếp tục điều chỉnh chính sách tiền tệ nhanh hơn, mạnh hơn, tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu; xung đột tại Ucraina có thể kéo dài, không chỉ ảnh hưởng đến giá xăng dầu, chi phí vận tải, logistics, chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng, mà còn tiềm tàng rủi ro đến ổn định chính trị khu vực, toàn cầu; nguy cơ khủng hoảng an ninh năng lượng, lương thực.

Một số kịch bản lạm phát toàn cầu trong thời gian tới bao gồm:

– Kịch bản 1 – kịch bản cơ sở: lạm phát toàn cầu đạt đỉnh trong Quý II/III năm 2022 trước khi giảm dần và ổn định vào cuối năm 2023. Giá năng lượng vẫn ở mức cao trong năm 2022 nhưng bắt đầu giảm vào năm 2023, chuỗi cung ứng toàn cầu dần hồi phục và các điều chỉnh chính sách nhằm kiềm chế lạm phát của các quốc gia phát huy hiệu quả.

– Kịch bản 2: lạm phát tiếp tục giữ đà tăng và sẽ đạt đỉnh vào đầu năm 2023 trước khi giảm dần nhưng với tốc độ chậm hơn vào năm 2024; giá dầu có thể đạt mức 150 USD/thùng.

– Kịch bản 3: lạm phát giảm với tốc độ nhanh và sớm ổn định vào giữa năm 2023 trong trường hợp xung đột tại Nga – Ucraina sớm kết thúc.

Nền kinh tế có khả năng phục hồi nhanh hơn; hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục khởi sắc; nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển KTXH được giải ngân nhanh hơn, mạnh hơn. Tuy nhiên, rủi ro, thách thức phục hồi kinh tế còn rất lớn, nhất là giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, cộng hưởng với đà phục hồi tiêu dùng trong nước, tạo áp lực lạm phát, tăng chi phí sản xuất. Cần phải có thêm các giải pháp trọng tâm để hỗ trợ kịp thời, tránh suy giảm sản xuất trong nước, nhất là sản xuất nông nghiệp; từ đó tác động dây chuyền đến nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, đời sống người dân.

Cần có thêm các giải pháp hỗ trợ kịp thời, tránh suy giảm sản xuất trong nước

Dựa trên các dự báo như vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, cần tiếp tục triển khai nhanh, hiệu quả, thực chất, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong ngắn hạn tại Nghị quyết 01/NQ-CP, Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế – xã hội, Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 (2022-2023)…, nhưng cũng phải vừa thực hiện các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế phát triển trong trung và dài hạn.

“Cần phải có thêm các giải pháp trọng tâm để hỗ trợ kịp thời, tránh suy giảm sản xuất trong nước, nhất là sản xuất nông nghiệp; từ đó tác động dây chuyền đến nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, đời sống người dân”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương nói.

Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh, trong điều hành kinh tế vĩ mô, việc sử dụng đồng bộ, linh hoạt, có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có ý nghĩa hết sức quan trọng.

“Phải chủ động nắm chắc tình hình, tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy quá trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội và duy trì động lực tăng trưởng trong dài hạn, khai thác các động lực tăng trưởng mới; tăng trưởng kinh tế vừa trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, vừa là điều kiện để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô”.

Mục tiêu điều hành trong thời gian tới, được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ ra, là phải “giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, nhưng không làm suy yếu các động lực tăng trưởng”.

Theo đó, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2021-2025 khoảng 6,5-7%, bảo đảm các cân đối lớn đặt ra trong giai đoạn 2021-2025, như tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước không thấp hơn 16% GDP, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước bình quân 3,7% GDP…

“Riêng năm 2022, tăng trưởng kinh tế đạt mức khoảng 7%, kiểm soát lạm phát tăng dưới 4%, tăng trưởng tín dụng khoảng 14%”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho hay.

Cùng với đó, phải hỗ trợ tích cực cho phục hồi, phát triển nhanh sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực quan trọng, tiết giảm chi phí, bảo đảm nhu cầu huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân trên cơ sở bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, các cân đối lớn.

Về công tác xã hội, Thứ trưởng cho rằng cần bảo đảm an sinh, an dân; hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho các đối tượng yếu thế, người nghèo, thu nhập thấp.