Cũng theo ông Đinh Hữu Phí, trên cơ sở kết quả nghiên cứu, các bên dự kiến sẽ đề xuất với Chính phủ cho phép mở rộng đối tượng áp dụng cơ chế giao quyền đăng ký đối với kết quả nghiên cứu là đối tượng được bảo hộ giống cây trồng.

Sẽ xây cơ chế khuyến khích tạo ra, khai thác tài sản trí tuệ do Nhà nước đầu tư
Ở bất kỳ quốc gia nào, trường đại học, viện nghiên cứu luôn là nơi đầu nguồn sáng tạo ra tri thức và công nghệ mới

Một điều rõ ràng là ở bất kỳ quốc gia nào, trường đại học, viện nghiên cứu luôn là nơi đầu nguồn sáng tạo ra tri thức và công nghệ mới. Thực tế chứng minh nhiều trường đại học, viện nghiên cứu trên thế giới hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn thu từ việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của mình.

Theo số liệu thống kê hằng năm của Cục Sở hữu trí tuệ, mặc dù đơn đăng ký sáng chế của người Việt Nam vẫn chiếm tỉ lệ thấp so với tổng số đơn đăng ký sáng chế nộp tại Việt Nam nhưng số lượng đơn đăng ký sáng chế của các trường đại học, viện nghiên cứu có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, phần nào thể hiện sự cải thiện về giá trị của các kết quả nghiên cứu từ các trường đại học, viện nghiên cứu. Có căn cứ xác lập quyền sở hữu trí tuệ thì các kết quả nghiên cứu này mới có thể được thương mại hóa một cách hiệu quả, từ đó tái đầu tư cho nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng còn tồn tại những bất cập trong một số quy định hiện hành, trong đó có quy định về sở hữu trí tuệ là rào cản cho việc thương mại hóa các tài sản trí tuệ của trường đại học, viện nghiên cứu.

Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ cho biết, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ đã có những đề xuất điều chỉnh quy định nhằm khuyến khích tạo ra, khai thác tài sản trí tuệ do Nhà nước đầu tư.

Cụ thể, Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006, đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 2009 và năm 2019, là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến loại tài sản đặc biệt – tài sản trí tuệ.

Qua thực tiễn hơn 16 năm thi hành, Luật Sở hữu trí tuệ đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo hành lang pháp lý cho hoạt động sáng tạo, xác lập, khai thác, sử dụng và thụ hưởng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động sản xuất, kinh doanh; góp phần khuyến khích hoạt động sáng tạo; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ còn là nền tảng đưa hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của Việt Nam đạt chuẩn mực theo Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT (TRIPS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như đáp ứng các nghĩa vụ theo cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới gần đây.

Tuy nhiên, với xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng thông qua việc gia nhập các điều ước quốc tế, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình cam kết khi gia nhập, trong đó có những nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ cần phải có những sửa đổi phù hợp là điều tất yếu. Trong số bảy nhóm chính sách trong lần sửa đổi này, có một chính sách liên quan trực tiếp tới các trường đại học, viện nghiên cứu, cụ thể là chính sách “Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước”.

Nội dung sửa đổi để thực hiện chính sách này được thể hiện theo hai phương án:

– Phương án 1 là sửa đổi Điều 86, bổ sung các Điều 86a, 133a, 136a và khoản 6 Điều 139 để quy định cụ thể về việc quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước được trao cho tổ chức chủ trì một cách tự động và không bồi hoàn, đồng thời quy định bảo lưu quyền của Nhà nước trong một số trường hợp cũng như nghĩa vụ của tổ chức chủ trì.

Phương án này được đưa ra nhằm mục đích: (i) tạo động lực khuyến khích các đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước đăng ký xác lập quyền SHCN đối với phần kết quả nghiên cứu có khả năng bảo hộ SHCN, và thúc đẩy thương mại hóa đối tượng quyền SHCN đó; (ii) vẫn bảo đảm được sự quản lý của Nhà nước đối với kết quả nghiên cứu KHCN được bảo hộ SHCN có sử dụng ngân sách.

Quy định tương tự đã được nhiều quốc gia thực hiện nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu KH&CN, thương mại hóa kết quả nghiên cứu phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, cụ thể đi đầu là Hoa Kỳ, tiếp đó là các nước như Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Phần Lan, Nga,…; các quốc gia châu Á như Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Phillipines và châu lục khác như Brazil, Chile, Mexico, Argentina, Nam Phi, Úc… cũng đã có quy định tương tự. Trong số 50 quốc gia dẫn đầu về tổng số đơn đăng ký sáng chế của công dân năm 2019, có 24 quốc gia có quy định pháp luật tương tự Luật Bayh-Dole của Hoa Kỳ. Ngay trong ASEAN, có 4 quốc gia đã có quy định tương tự. Đặc biệt, Luật Tiến bộ KH&CN Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 2007 cũng đã quy định trao quyền đăng ký sáng chế, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ KH&CN.

– Phương án 2 là giữ nguyên quy định pháp luật hiện hành. Tuy nhiên phương án này không giải quyết được những tồn tại sau đây:

Pháp luật hiện hành (Điều 86 Luật SHTT, Điều 9 Nghị định 103/2006/NĐ-CP) quy định quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra trên cơ sở Nhà nước đầu tư thuộc về Nhà nước. Tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư có trách nhiệm đại diện Nhà nước thực hiện quyền đăng ký này

Tuy nhiên tổ chức, cơ quan nhà nước được giao quyền chủ đầu tư thực hiện quyền đăng ký và trở thành chủ văn bằng bảo hộ thì cũng không có khả năng thương mại hóa đối tượng được bảo hộ do không có chức năng cũng như khả năng kinh doanh.

Trong trường hợp để tổ chức chủ trì có quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí thì các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện việc giao quyền đăng ký kết quả nhiệm vụ KH&CN. Do tính chất phức tạp của tài sản trí tuệ, đặc biệt các quy định về định giá các đối tượng này mà hiện nay việc giao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy việc giữ nguyên quy định hiện hành sẽ không thể giải quyết được các bất cập hiện nay do không đủ căn cứ pháp lý cho tổ chức chủ trì thực hiện đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước trong một số trường hợp; không thúc đẩy việc khai thác, thương mại hóa các đối tượng này, làm cho giá trị đầu tư của nhà nước trở nên kém hiệu quả và quan trọng nhất là không thể “cởi trói” để thúc đẩy nguồn lực đổi mới sáng tạo của cả nền kinh tế. Đồng thời, quy định này chưa tính đến đặc thù của tài sản trí tuệ cũng như kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã thành công trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là định hướng phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay.

Liên quan đến ý kiến cần có phương án cụ thể hơn về phân chia lợi ích, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo đang nghiên cứu để đưa ra đề xuất về phân chia lợi ích phù hợp với Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 mà vẫn bảo đảm mục tiêu của chính sách này./.