NHỮNG ĐIỂM SÁNG TĂNG TRƯỞNG

Sau những nỗ lực trong chỉ đạo của Chính phủ, các bộ ngành và địa phương, trong đó đặc biệt phải nói đến sự quyết tâm của Thủ tướng Chính phủ, tăng trưởng GDP sau 9 tháng đầu năm 2022, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi nhanh hơn dự kiến và tiếp tục tăng trưởng trong bối cảnh toàn cầu có nhiều thách thức. Có thể theo dõi các thành quả đó qua Bảng 1.

Bảng 1: Tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm giai đoạn 2011-2022

Đơn vị: %

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9 THÁNG 2022 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Bảng 1 kết hợp với những số liệu chi tiết của Tổng cục Thống kê, cho thấy những điểm nổi bật sau:

(1) Tốc độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm 2022 đạt mức cao nhất cùng kỳ của giai đoạn 2011-2022

Hình 1: Tốc độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm

Đơn vị: %

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9 THÁNG 2022 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Hình 1 cho thấy, 9 tháng đầu năm 2022, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 8,83%, nhanh hơn so với cùng kỳ của các năm còn lại của giai đoạn 2011-2022, cao hơn 56% so với mức trung bình của cả giai đoạn 2011-2022, gấp 1,5 lần so với giai đoạn 2011-2020 và cao hơn nhiều so với 2 năm đại dịch Covd-19 (2020-2021). Có thể nói, quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19 của Việt Nam thể hiện khá rõ nét qua việc đạt được tốc độ tăng trưởng GDP ngày càng tăng theo 3 quý trong năm (tuần tự: 5,03%; 7,72% và 13,67%). Với tốc độ tăng trưởng GDP quý III/2022 đạt 13,67%, Việt Nam đã bứt phá cao hơn hẳn các nước trong khu vực, như: Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Singapore (lần lượt đạt tốc độ tăng trưởng 3,1%; 6,4%; 7,5%; 3,7%; 3%). Điều này cho thấy khả năng có thể thực hiện được mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho năm 2022 (là 7,5%-8%).

(2) Ba điểm sáng tạo sự khởi sắc tăng trưởng: ngành thương mại – dịch vụ, ngành lâm nghiệp – thủy sản và công nghiệp chế biến, chế tạo

Thứ nhất, phải kể đến tăng trưởng ngành thương mại – dịch vụ, từ mức tăng trưởng âm ở 9 tháng đầu năm 2021, đã đạt mức cao hơn hẳn so với cùng kỳ của 12 năm qua (10,57%), đóng góp tới 55% vào tăng trưởng GDP 9 tháng. Điều đáng nói ở đây là, tăng trưởng nhanh không phải chỉ đối với những ngành truyền thống, như: thương mại bán buôn, bán lẻ hàng hóa (đạt tăng trưởng 10,24%), mà còn cả đối với một số ngành suy giảm tăng trưởng hoặc tăng trưởng âm trong thời gian qua và một số ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, như: dịch vụ lưu trú, ăn uống (54,7%); du lịch lữ hành (tăng 3,9 lần); vận tải (14,2%); tài chính – ngân hàng (đạt 9,05%); nghệ thuật vui chơi giải trí (14,48%). Điều này thể hiện sự khôi phục đà tăng trưởng khá bền vững và hiệu quả của ngành thương mại – dịch vụ. Nếu duy trì và phát triển tiếp tục sang các ngành dịch vụ chất lượng cao hơn, như: du lịch, các ngành dịch vụ xã hội, thì ngành thương mại – dịch vụ sẽ là một trụ cột của tăng trưởng nhanh và bền vững đối với Việt Nam.

Thứ hai, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với cùng kỳ của giai đoạn 2011-2022. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính chung 9 tháng năm 2022, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69%. Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng trung bình của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, gồm: bia tăng 35,8%; thủy, hải sản chế biến tăng 20,4%; linh kiện điện thoại tăng 17,3%; ô tô tăng 16,5%; thép thanh, thép góc tăng 15,4%; quần áo mặc thường tăng 13,2%; thuốc lá điếu tăng 11,4%. Tính chung 9 tháng năm 2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2021 (chỉ tăng 2,8%).

Thứ ba, hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng có xu hướng tốt lên, cụ thể:

– Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao hơn. Hình 2 cho thấy, tuy rằng suất đầu tư tăng trưởng (đạt giá trị 3,6) vẫn còn cao hơn 1 số năm đầu giai đoạn 2011-2020, nhưng đã thấp hơn so với mức bình quân của thời kỳ này (đạt 6,3). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 9 tháng đầu năm 2022 được cải thiện so với cùng kỳ những năm trước đại dịch Covid-19. Nếu trong thời gian tới tiếp tục duy trì được suất đầu tư tăng trưởng dưới 5, thì đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng của Việt Nam sẽ được cải thiện hơn nhiều, giúp thực hiện được kế hoạch tăng trưởng GDP đặt ra cho năm 2022 và giai đoạn 2021-2025.

Hình 2: Suất đầu tư tăng trưởng Việt Nam

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9 THÁNG 2022 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

– Hiệu quả sử dụng lao động cao hơn. Hình 3 cho thấy tốc độ tăng trưởng năng suất lao động (NSLĐ) 9 tháng đầu năm 2022 đã có xu hướng tăng nhanh, không kể 2 năm đại dịch Covid-19, so với năm 2019, tăng trưởng NSLĐ 9 tháng đầu năm năm 2022 đạt 8,8%, cao nhất trong thời kỳ từ 2011 đến nay, gấp 1,7 lần so với mức trung bình thời kỳ 2011-2020. Với việc gia tăng tốc độ tăng trưởng NSLĐ như vậy, Việt Nam sẽ thực hiện được mục tiêu tăng trưởng cao trong thời gian tới.

Hình 3: Tăng trưởng NSLĐ Việt Nam giai đoạn 2011-2022

Đơn vị: %

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9 THÁNG 2022 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

(3) Tăng trưởng kinh tế nhanh đã làm cho bức tranh về việc làm và đời sống nhân dân cũng được cải thiện tích cực hơn

Tỷ lệ thất nghiệp 9 tháng đầu năm 2022 là 2,35%, có xu hướng giảm dần theo 3 quý (2,46%; 2,32%; 2,28%), thấp hơn cùng kỳ năm 2020, 2021 khá nhiều (tương ứng 2,6% và 3,1%). Kết quả này đã làm cho đời sống xã hội của người dân cũng được khởi sắc hơn. Tính chung 9 tháng năm 2022, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương tăng 12% so với cùng kỳ năm trước và tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng lên so với tháng cùng kỳ năm 2021 là 83,2%. Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội năm 2022-2023 được triển khai tốt trong 9 tháng đầu năm 2022, tập trung vào các lĩnh vực cấp bách và có khả năng hấp thụ tốt, dự án có tính liên vùng, chương trình hỗ trợ, trợ cấp cho người lao động; khơi thông các điểm nghẽn đã góp phần quan trọng làm cho bức tranh về đời sống xã hội được khởi sắc đáng kể so với những năm trước.

NHỮNG BẤT CẬP

Một là, quá trình phục hồi tăng trưởng không đều, nhiều ngành sản phẩm mặc dù có biểu hiện tốt lên, nhưng vẫn chưa đạt mức của thời kỳ trước đại dịch Covid-19. Quá trình phục hồi của khu vực dịch vụ đến nay vẫn đi sau so với các ngành khác, nhiều lĩnh vực vẫn chưa phục hồi bằng mức của thời kỳ trước khi có đại dịch Covid-19 xảy ra, thể hiện qua những điểm sau:

– Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 9 tháng năm 2022 ước đạt 430,9 nghìn tỷ đồng, tăng 54,7% so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu vui chơi và du lịch của người dân tăng cao trong dịp hè. Mặc dù vậy, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 9 tháng năm 2022 chỉ bằng 97,8% so với cùng kỳ năm 2019.

Doanh thu du lịch lữ hành 9 tháng năm 2022 ước đạt 18,2 nghìn tỷ đồng, gấp 3,9 lần so với cùng kỳ năm trước do hoạt động du lịch phục hồi mạnh mẽ đặc biệt là du lịch nội địa. Tuy nhiên, doanh thu du lịch lữ hành 9 tháng năm 2022 mới chỉ bằng 55,9% so với cùng kỳ năm 2019.​

Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 9 đạt 431,9 nghìn lượt người, giảm 11,2% so với tháng trước và gấp 45,4 lần so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam đã mở cửa du lịch, các đường bay quốc tế được khôi phục trở lại. Tính chung 9 tháng năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt 1.872,9 nghìn lượt người, gấp 16,4 lần so với cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn giảm 85,4% so với cùng kỳ năm 2019, năm chưa có dịch Covid-19.

Hai là, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt tuy tốc độ tăng trưởng tốt nếu tính bình quân trong 9 tháng, nhưng một số sản phẩm đang có xu hướng giảm đi theo các quý trong năm; một số mặt hàng giảm khá nhanh do hậu quả của tăng trưởng nhờ vào gia công.

Trước hết là ngành sản xuất giầy dép da xuất khẩu. Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, xuất khẩu giày dép – túi xách đến nay đã đạt hơn 19 tỷ USD; trong đó, da giày đạt 16,5 tỷ USD, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm trước, túi xách đạt 3 tỷ USD, tăng 30%. Tuy nhiên, tăng trưởng này chủ yếu rơi vào các tháng đầu năm. Đến thời điểm này, dự báo xuất khẩu của ngành da giày không được lạc quan bởi những bất lợi của tình hình kinh tế thế giới đã tác động mạnh đến ngành. Các thị trường xuất khẩu chính của da giày là EU, Mỹ đều đang chịu lạm phát gia tăng khiến người dân giảm chi tiêu, thị trường tiêu dùng sụt giảm, ảnh hưởng đến sức mua chung làm cho sản phẩm giầy dép có xu hướng giảm đi khá nhiều.

Tiếp đó là ngành dệt may, trong khi từ tháng 7/2022 tới nay, các doanh nghiệp đang rất khó khăn, nhiều doanh nghiệp dệt may ở khu vực TP. Hồ Chí Minh đang sụt giảm đơn hàng mạnh. Số lượng đơn đặt hàng trong quý IV/2022 thấp hơn 25%-50% so với quý II/2022, tương đương với mức giảm doanh thu 15%-20% so với cùng kỳ theo ước tính, do lượng hàng tồn kho tại các thị trường nhập khẩu hiện ở mức cao. Nguyên nhân là do một thị trường lớn của dệt may, như: Mỹ, châu Âu tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, không được như kỳ vọng, dự đoán mức tăng chỉ bằng 50% so với năm 2021.

Ba là, kim ngạch xuất – nhập khẩu hàng hóa cũng đang có biểu hiện suy giảm mạnh trong quý III/2022. Số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm 2022 lại đột ngột giảm nhanh. Tổng trị giá xuất – nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 9/2022 (từ ngày 01/9 đến ngày 15/9) đạt 26,34 tỷ USD, giảm 25,7% (tương ứng giảm 9,09 tỷ USD) so với kết quả thực hiện trong nửa cuối tháng 8/2022. Một số nhóm hàng có trị giá xuất khẩu giảm, gồm: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 1,17 tỷ USD (tương ứng giảm 38,2%); điện thoại các loại và linh kiện giảm 1,07 tỷ USD (tương ứng giảm 31,5%); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác giảm 751 triệu USD (tương ứng giảm 29,7%). Ngành dệt may, như nói ở trên, trong nửa đầu tháng 9 năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 1,2 tỷ USD, giảm 48% so với nửa đầu tháng 8/2022. Triển vọng đơn hàng cho quý IV và 6 tháng đầu năm 2023 không mấy khả quan, do lo ngại lạm phát và lượng hàng tồn kho ở mức cao của khách hàng. Lạm phát cao kỷ lục ở hầu hết các quốc gia làm nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng không thiết yếu nhập khẩu chịu ảnh hưởng, gây sụt giảm cầu hàng hóa nhập khẩu từ các nước, ảnh hưởng đến phục hồi kinh tế, làm giảm sức cầu hàng hóa và ảnh hưởng đến đầu tư.

Bên cạnh đó, việc gián đoạn chuỗi cung ứng dự báo sẽ còn tiếp diễn, làm giảm đà phục hồi các hoạt động kinh tế, đầu tư, thương mại hậu Covid-19. Ngoài ra, giá hàng hóa thiết yếu, giá cước vận tải mặc dù có dấu hiệu giảm, nhưng vẫn ở mức cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đà phục hồi tăng trưởng kinh tế toàn cầu, tạo ra những khó khăn cho kinh tế.

TRIỂN VỌNG TĂNG TRƯỞNG CẢ NĂM 2022 VÀ KHUYẾN NGHỊ

Dự báo tăng trưởng cả năm 2022

Bảng 2: Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP cả năm 2022

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9 THÁNG 2022 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Nguồn: Nhóm tác giả tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê

Bằng phương pháp ngoại suy theo xu thế và sự tương quan giữa tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm với cả năm của những năm trước, nếu 9 tháng đầu năm 2022 tốc độ tăng trưởng đạt 8,8%, với hệ số tăng trưởng 9 tháng đầu năm so với cả năm giai đoạn 2011-2021 (trừ 2 năm 2020 và 2021 do đại dịch Covid-19) là 0,9-0,92. tính toán cho thấy, khả năng tăng trưởng cả năm 2022 sẽ đạt khoảng 7,9%-8,1%. Con số dự báo này phù hợp với dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (8%), xấp xỉ với dự báo của WB (là 7,2%) và một số tổ chức quốc tế khác. Con số ước tính trên cho thấy tính khả thi bởi một số thông tin khả quan của 3 tháng cuối năm của khu vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, theo điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê, xu hướng chung trong 3 tháng cuối năm 2022, phần lớn doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất, kinh doanh lạc quan hơn 9 tháng vừa qua với một tỷ lệ khá cao (Hình 4).

Hình 4: Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo có xu hướng tăng về các hình thức

Đơn vị: %

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9 THÁNG 2022 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Nguồn: Số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê

Một số khuyến nghị

Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng cả năm 2022 (theo dự báo) cũng như cho năm 2023, theo quan điểm của nhóm tác giả, cần thực hiện các chính sách để giảm thiểu tối đa những rủi ro trong quá trình phát triển, nhất là những rủi ro do những bất ổn của kinh tế thế giới. Theo đó, cần lưu ý các giải pháp sau:

Thúc đẩy giải ngân đầu tư công, trong đó nhấn mạnh đến thực hiện Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế. Có thể nói, việc chậm giải ngân đầu tư công và các khoản chi xã hội so với kế hoạch, đặc biệt là chậm thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế so với mục tiêu của Chính phủ đề ra có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng trong năm nay và năm sau. Ngoài ra, Chính sách thúc đẩy đầu tư công sẽ bù đắp xuất khẩu giảm sút do ảnh hưởng của nhu cầu trên thị trường thế giới đang yếu đi. Liên quan đến thúc đẩy đầu tư công, nhóm tác giả đồng tình với 2 giải pháp được đưa ra bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đó là:

(i) Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ chế, chính sách. Theo giải pháp này, cần phân công cụ thể trách nhiệm của từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong rà soát các quy định pháp luật. Trong đó yêu cầu, các bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương, lãnh đạo các tỉnh, thành phố, người đứng đầu các cơ quan trực tiếp phụ trách và chịu trách nhiệm rà soát các quy định hiện hành về đầu tư công, chỉ ra những quy định bất cập trong thực tiễn triển khai các quy định liên quan đến triển khai các dự án đầu tư công thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Trên cơ sở đó, sửa đổi, bổ sung ngay những quy định đã trở nên bất hợp lý gây khó trong thực hiện và quản lý vốn đầu tư công.

(ii) Tổ chức triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Theo đó: Từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương được phân công chịu trách nhiệm, cần triển khai quyết liệt giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công trong phạm vi được giao quản lý. Trong quá trình triển khai, căn cứ tình hình thực tế giải ngân, nếu có nhu cầu bổ sung vốn, có văn bản đề xuất điều chỉnh kế hoạch vốn, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp chung. Với các nhiệm vụ, dự án được Thủ tướng Chính phủ giao Kế hoạch đầu tư công trung hạn sau khi có ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trường hợp cần bổ sung Kế hoạch vốn năm 2022 để thực hiện các dự án ngay trong năm, sau khi đã được chấp nhận cần có chế tài để triển khai thực hiện kịp thời.

Thực hiện tốt hơn nữa các chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước, theo đó:

(i) Đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền về cuộc vận động bằng nhiều hình thức, nội dung phù hợp tới các cơ quan, đơn vị và tổ chức chính trị – xã hội, nhằm khuyến khích và ưu tiên thực hiện mua hàng Việt Nam khi có nhu cầu mua sắm bằng nguồn kinh phí thuộc ngân sách nhà nước.

(ii) Để kích thích tiêu dùng hàng nội địa, cần có sự phối hợp chặt chẽ đồng bộ bên cạnh việc đẩy nhanh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, làm cho người tiêu dùng trong nước và ngoài nước nhận thức đúng khả năng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam.

(iii) Các cơ quan, đơn vị và tổ chức chính trị – xã hội nên sử dụng hàng hóa nội địa khi thực hiện các mua sắm công. Các doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh trong nước khi triển khai các dự án công trình sử dụng các trang thiết bị, nguyên vật liệu nội địa và dịch vụ có chất lượng tương đương ngoại nhập để sản xuất, kinh doanh.

(iv) Rà soát, ban hành bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường người tiêu dùng trong nước, sản xuất trong nước không trái với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới, khuyến khích và định hướng tiêu dùng của nhân dân, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu của các cơ quan, tổ chức và cá nhân không gương mẫu trong thực hành tiết tiệm và lãng phí trong chi tiêu.

Tháo gỡ khó khăn để đẩy mạnh sản xuất công nghiệp trong nước. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về những khó khăn của doanh nghiệp 9 tháng đầu năm 2022, còn tới 25,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và quý IV/2022 vẫn còn 20% doanh nghiệp dự báo còn gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; trong đó, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ dự báo cao hơn. Những khó khăn của các doanh nghiệp thường tập trung vào: cạnh tranh về chất lượng và giá cả các sản phẩm trong nước, nhu cầu thị trường trong nước thấp, khó khăn về tài chính cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiếp cận nguồn vốn vay do lãi suất cao, khó khăn trong tuyển dụng lao động theo yêu cầu và những khó khăn của doanh nghiệp trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Quan trọng nhất vẫn là thực hiện nhanh quá trình “cởi trói” cho doanh nghiệp nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh và bảo vệ hợp pháp của nhà đầu tư, tuyệt đối không đặt ra các rào cản, các điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý gây cản trở hoạt động của doanh nghiệp, quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc Chính phủ kiến tạo, lấy doanh nghiệp làm động lực để thúc đẩy nền kinh tế. Theo đó, cần phân vai cụ thể cho cơ quan bộ, ngành để thực hiện các cơ chế tài chính, khơi thông nguồn vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cụ thể:

– Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với chính sách tài khóa và các chính sách khác để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy tăng trưởng; phối hợp đồng bộ các công cụ, giải pháp về tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng tín dụng. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát và thị trường trong, ngoài nước; phối hợp đồng bộ với điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ, sẵn sàng bán can thiệp khi cần thiết, để ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất.

– Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương thực hiện chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả; đẩy mạnh tăng thu, mở rộng cơ sở thu, tăng cường chống thất thu; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, nhất là chi sự nghiệp có tính chất đầu tư, các khoản chi chưa thực sự cần thiết; tiếp tục chỉ đạo, rà soát giảm thuế, phí, lệ phí và có chính sách phù hợp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Cùng các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ tăng cường quản lý, kiểm soát giá cả, thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống; tăng cường phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại.

– Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu, tình hình thị trường các mặt hàng thiết yếu, nhất là xăng, dầu; có giải pháp không để đứt gãy nguồn cung, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước; đẩy mạnh cơ cấu lại các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, phấn đấu thặng dư thương mại bền vững; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, đa dạng hóa, mở rộng thị trường quốc tế. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh, giảm phát thải.

Tiếp tục chuyển đổi từ công nghiệp gia công lắp ráp sang chế biến, chế tạo

(i) Tiếp tục tăng cường các chính sách thu hút FDI. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của dòng vốn này, trong thời gian tới, cần lưu ý đến nâng cao chất lượng dòng vốn FDI, đặc biệt chú trọng các dự án FDI có quy mô vốn lớn, các nhà đầu tư công nghệ gốc. Chỉ tiếp nhận các dòng FDI có lộ trình chuyển giao công nghệ và có đặt nội dung hoạt động liên kết với doanh nghiệp trong nước và các FDI dưới dạng liên danh liên kết với các doanh nghiệp trong nước.

(ii) Giảm thiểu khó khăn của các khu vực kinh tế trong nước thông qua việc thực hiện giải pháp liên kết doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI. Cần có những đàm phán và thỏa thuận với các doanh nghiệp FDI có quy mô lớn để thực hiện sự liên kết thông qua việc doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất sản phẩm phụ trợ cho các doanh nghiệp FDI thay vì các doanh nghiệp này phải nhập khẩu về. Điều này sẽ là một giải pháp 2 trong 1: một mặt, giải quyết khó khăn trong hoạt động của doanh nghiệp trong nước thông qua các hoạt động sản xuất chi tiết, phụ tùng sản phẩm cùng với doanh nghiệp FDI; mặt khác, thực hiện một bước Đề án phát triển công nghiệp hỗ trợ dựa vào những liên kết với các doanh nghiệp FDI./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thủ tướng Chính phủ (2022). Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 22/7/2022 về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự thảo ngân sách nhà nước năm 2023

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2022). Công văn văn bản số 5035/BKHĐT-TH, ngày 22/7/2022 về xây dựng Kế hoạch đầu tư công năm 2023

3. Ngân hàng Thế giới (WB) (2022). Báo cáo cập nhật khu vực kinh tế châu Á – Thái Bình Dương

4. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2022). Báo cáo Cập nhật triển vọng phát triển châu Á (ADB) 2021

5. Tổng cục Hải quan (2022). Số liệu thống kê xuất – nhập khẩu sơ bộ kỳ 1 tháng 9

6. Tổng cục Thống kê (2022). Báo cáo kinh tế – xã hội 9 tháng đầu năm 2022

GS, TS. Ngô Thắng Lợi

PGS, TS. Vũ Cương

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 29, tháng 10/2022)