Tự chủ đại học mang đến sự chủ động và cơ hội cho các trường vươn mình hội nhập với quốc tế
Tự chủ đại học mang đến sự chủ động và cơ hội cho các trường vươn mình hội nhập với quốc tế

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

Tự chủ đại học và nội hàm

Tự chủ đại học là một khái niệm phát sinh cùng với sự ra đời của trường đại học. Khái niệm tự chủ đã có từ thời Aristotle (384-322 trước công nguyên). Với nhận thức trường đại học sẽ phát triển tốt hơn nếu các nhà học thuật có được tự chủ đầy đủ, nội hàm của tự chủ đại học xuất phát từ triết lý về giáo dục đại học của quốc gia, tùy theo nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng mà trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về tự chủ.

Thomas Estermann (2015) cho rằng, tự chủ đại học (University autonomy) là nói đến các mối quan hệ đang thay đổi giữa nhà nước và các trường đại học. Xu hướng thay đổi cơ bản là phát huy truyền thống tự do học thuật và giảm dần sự kiểm soát trực tiếp của các cơ quan công quyền đối với trường đại học. Từ góc độ này, tự chủ đại học là quyền tự do của thể chế đại học trong việc ra quyết định và thực thi các quyết định đối với các hoạt động nội bộ của đại học mà không có sự kiểm soát hay can thiệp của nhà nước và bất kỳ sự ảnh hưởng nào nếu có của nhà nước cũng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Tự chủ đại học là tự chủ thể chế đại học với nghĩa là tự chủ của trường đại học và tự chủ này được thể chế hóa bởi hệ thống các chính sách, pháp luật của nhà nước.

Ở các nước châu Âu, tự chủ đại học được nhìn nhận từ hai khía cạnh cơ bản, gồm có: (i) thoát ra khỏi sự kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước, của thị trường lao động, nhà cung cấp dịch vụ và ảnh hưởng chính trị; (ii) quyền tự do đưa ra quyết định về cách thức tổ chức hoạt động cũng như mục tiêu sứ mạng của trường. Nghiên cứu về các mô hình quản trị đại học trên thế giới cho thấy mức độ tự chủ – thể hiện ở mức độ kiểm soát của nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học – ở các quốc gia là khác nhau do chịu ảnh hưởng của thể chế chính trị, kinh tế, xã hội không giống nhau (Vũ Tiến Dũng, 2021). Thậm chí ở trong cùng một quốc gia, mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học cũng có thể khác nhau tùy thuộc vào chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học.

Tại Việt Nam, khái niệm “tự chủ đại học” mới xuất hiện khoảng gần hai thập kỷ gần đây và được thể hiện trong Điều 32 của Luật Giáo dục đại học (2012) đưa ra thuật ngữ “Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học” và đến năm 2014 Điều lệ trường đại học mới được ban hành. Theo đó, tự chủ đại học ở nước ta được hiểu là các trường đại học được tự chủ theo quy định của pháp luật, gắn với tự chịu trách nhiệm và được thể chế hóa từng phần trong từng lĩnh vực hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Như vậy, có thể khái quát tự chủ đại học được nhìn nhận là sự thiết lập cơ chế độc lập tương đối của các ngoại tác nhân để trường đại học có thể chủ động trong công tác quản trị, tổ chức nội bộ, tạo lập, phân bổ các nguồn lực tài chính, tuyển dụng và bố trí nhân sự, xây dựng các tiêu chuẩn đo lường chất lượng cho việc tổ chức giảng dạy, học tập và nghiên cứu.

Các khía cạnh của tự chủ đại học

Tự chủ đại học được thể hiện trên 4 khía cạnh, cụ thể:

Thứ nhất, tự chủ về tổ chức (organisational autonomy), tức là tự quyết định cơ cấu tổ chức và quá trình ra quyết định của mình. Các trường đại học cần được tự quyết định và chủ động trong việc xây dựng cơ cấu tổ chức, phân tách, thành lập các đơn vị trực thuộc, đồng thời xây dựng một chiến lược phát triển có tầm nhìn và định hướng rõ ràng.

Thứ hai, tự chủ Tự chủ về tài chính (financial autonomy), tức là độc lập điều hành và phân bổ ngân quỹ của mình đảm bảo các nguồn lực bên trong phục vụ cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường. Các trường đại học cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho tài sản tương lai và cân đối các nguồn tài chính thu và chi nhằm đảm bảo hệ thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi.

Thứ ba, tự chủ về nhân sự (staffing autonomy). Quyền tự chủ của các trường đại học trong quản lý đội ngũ thể hiện ở sự tự do tuyển chọn, bố trí giảng viên và cán bộ vào các vị trí lao động cần thiết. Các cơ sở đại học còn có quyền tự chủ trong việc xác định các điều kiện cho cán bộ và đặc biệt giảng viên làm việc thuận lợi. Các giảng viên có quyền tham gia các công việc khác trong và ngoài nhà trường để tạo thêm thu nhập. Nhà nước có quyền quy định mức lương tối thiểu cho đội ngũ trên phạm vi quốc gia. Nhiều nước hiện đang sử dụng chế độ trả lương theo kết quả công việc nhằm khuyến khích những người làm việc với kết quả công việc cao. Quyền tự chủ trong quản lý đội ngũ là điều kiện để trường đại học thực hiện có hiệu quả chức năng và nhiệm vụ vủa mình.

Thứ tư, tự chủ về học thuật (academic autonomy), tức là tự điều hành công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của mình. Các trường đại học cần được tự quyết định về ngành học và chương trình đào tạo; các tiêu chuẩn học thuật và chất lượng; số lượng và phương thức tuyển sinh.

VAI TRÒ CỦA TỰ CHỦ ĐẠI HỌC

Tự chủ đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng phát huy năng lực nội tại của các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời cũng nhằm để đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu phát triển nhân lực trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng. Theo đó, vai trò của tự chủ đại học có thể nhìn nhận ở các góc độ, như sau:

(i) Tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo. Thay vì sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động nội bộ các trường thì giờ đây Nhà nước chỉ giữ vai trò là người định hướng thông qua chính sách thích hợp phân bổ nguồn lực. Tự chủ giúp các cơ sở giáo dục đại học tiếp cận mô hình quản trị hiện đại của hệ thống trường đại học ở các nước phát triển.

(ii) Tự chủ đại học sẽ giúp các trường đại học được phát triển mạnh mẽ hơn từ việc đầu tư nghiên cứu khoa học đến thay đổi chương trình đào tạo và khẳng định thương hiệu. Tự chủ đại học là gắn liền với trách nhiệm cho nên mỗi trường sẽ tự lựa chọn cho mình một hướng đi phù hợp để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Cơ chế tự chủ đại học tuyển sinh sẽ giúp nhà trường chủ động, mềm dẻo và sáng tạo cũng như linh hoạt trong các hoạt động diễn ra trong trường. Còn tùy vào điều kiện của mỗi trường mà thực hiện mức độ tự chủ, từ tự chủ một phần cho đến tự chủ hoàn toàn. Các cơ sở giáo dục đại học thí điểm tự chủ cho thấy được sự linh hoạt và chủ động hơn về tổ chức bộ máy, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và tuyển dụng nhân sự. Khi chuyển sang tự chủ hoàn toàn, trường đại học đó phải được đánh giá về chất lượng uy tín, thương hiệu, có khả năng thu hút được sinh viên và có những chế độ chính sách miễn học phí cho sinh viên.

(iii) Tự chủ đại học cũng là xu hướng tất yếu để cạnh tranh giữa các trường đại học. Khi quyền tự chủ được phát huy, từng cá nhân, tổ chức trong nhà trường sẽ phải không ngừng vận động, đổi mới sáng tạo để cùng góp phần đào tạo cho xã hội một lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu. Một trong những sứ mệnh quan trọng nhất của trường đại học là sáng tạo ra tri thức. Muốn vậy, đại học phải có quyền tự do học thuật, tự chủ về chuyên môn, khơi dậy sự sáng tạo của từng thành viên. Tự chủ đại học không phải tự nó tạo ra chất lượng đào tạo mà chỉ là tiền đề cho các cơ sở giáo dục đại học tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Không phải cứ tự chủ đại học thì mọi cái sẽ tự động trở nên tốt hơn, việc tự chủ đại học không đồng nghĩa với chất lượng mà chỉ là tạo nền tảng, động lực, còn hiệu quả đến đâu thì chủ yếu phụ thuộc vào năng lực nội tại của từng cơ sở giáo dục đại học.

Tóm lại, việc tăng cường tự chủ của các trường đại học sẽ giúp đảm bảo nâng cao năng lực đào tạo trên các khía cạnh về: đáp ứng chương trình đào tạo phù hợp; chất lượng sinh viên tốt nghiệp; tỷ lệ sinh viên có việc làm đúng ngành nghề; đánh giá của nhà tuyển dụng về chất lượng đào tạo; chất lượng công trình khoa học được công bố…

NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG THỰC TIỄN TRIỂN KHAI TỰ CHỦ ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

Tự chủ đại học tại Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhân, tuy nhiên việc triển khai còn gặp một số khó khăn, thách thức cần giải quyết như:

Khung pháp lý về tự chủ đại học ở Việt Nam chưa đồng bộ, thiếu tính nhất quán và còn mang tính thử nghiệm. Luật Giáo dục đại học và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan hầu như không có các điều khoản quy định, cụ thể hóa nội dung tự chủ đại học. Các quy định về căn cứ, nguyên tắc chung, điều kiện để giao quyền tự chủ, cũng như cụ thể hoá quyền tự chủ đại học về đào tạo, học thuật, bộ máy quản lý và nhân sự, tài chính, mua sắm và đầu tư, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế, kiểm định chất lượng… còn chưa rõ ràng.

Nguồn chi ngân sách Nhà nước (NSNN) cho giáo dục đại học tại nước ta còn chiếm tỷ lệ tương đối khiêm tốn so với các bậc giáo dục khác và so với các quốc gia khác trong khu vực. Theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới, năm 2015, chi cho giáo dục đại học của Việt Nam chỉ nhận được khoảng 6,1% trong tổng chi của ngân sách (tương đương 0,33% GDP). Con số này thấp hơn nhiều so với tỷ trọng GDP của chi ngân sách cho giáo dục đại học ở nhiều nước như Singapore (1,0%), Hàn Quốc (0,94%), Malaysia (1,3%) và Thái Lan (0,64%) [5]. Điều đó dẫn đến khó khăn cho các trường trong việc thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính, phát triển các chiến lược đào tạo cần quy mô tài chính lớn.

Khi các trường đại học công lập chuyển sang cơ chế tự chủ hoàn toàn theo Nghị định số 86/2015/ NĐ-CP do Chính phủ ban hành năm 2015 sẽ không còn được hỗ trợ kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư từ NSNN. Thay vào đó, các trường được phép tính học phí theo định mức kinh tế kỹ thuật dựa trên khung học phí do Nhà nước quy định và thường cao hơn so với mức học phí trước khi tự chủ. Song mức học phí này vẫn chưa phản ánh hết các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình cung cấp dịch vụ đào tạo như chi phí tiền lương, chi phí quản lý, chi phí khấu hao tài sản cố định… Một vấn đề khác đặt ra là với mức học phí được đưa ra mặc dù chưa phản ánh đúng chi phí đào tạo nhưng trước mắt có thể làm giảm cơ hội được đến trường của các sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn, làm chậm quá trình mở rộng quy mô đào tạo nhân lực trình độ đại học. Hệ quả của vấn đề này làm giảm số lượng người học, gia tăng khả năng cạnh tranh không lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục đại học. Như vậy, một vòng luẩn quẩn được thiết lập nếu không được tháo gỡ nút thắt thì tự chủ đại học của Việt Nam trong thời gian tới khó có thể đặt được mục tiêu đề ra.

Nguồn tài chính của các trường đại học công lập còn hạn hẹp, chưa được đa dạng hóa. Các trường đại học công lập có 3 nguồn tài chính chủ yếu: (i) Nguồn kinh phí NSNN cấp; (ii) Nguồn thu học phí; (iii) Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, học phí là một trong những nguồn tài chính quan trọng của các trường đại học công lập. Các trường chưa khai thác, tạo nguồn thu từ bán các sản phẩm nghiên cứu khoa học ứng dụng thực tiễn cho thị trường. Trong khi đó, điều này đã được rất nhiều các trường đại học trên thế giới triển khai nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách trường. Khó khăn phải kể đến cơ chế, chính sách của nhà nước chưa tạo điều kiện cho các trường có thể kinh doanh sản phẩm nghiên cứu khoa học giống như các “doanh nghiệp” khác trên thị trường. Dù sao cơ sở giáo dục đại học công lập vẫn bị trói chặt trong quyền sở hữu của nhà nước nên việc sử dụng vốn, tài sản từ ngân sách nhà nước trở thành tài sản đảm bảo tiếp cận vốn vay hoặc định giá góp vốn trong hoạt động liên doanh, liên kết phục vụ nghiệp vụ “kinh doanh” mang lại nguồn thu cho cơ sở giáo dục đại học còn ít.

Việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học tại nước ta trong thời gian qua có thể nói vẫn chưa đi vào thực chất. Hiện nay, các trường đều phải chịu sự phân phối về chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo nên cho dù nguồn lực có thể tiếp nhận nhiều hơn nhưng các trường không thể tuyển vượt quá chỉ tiêu đã được ấn định. Đây là một sự lãng phí về nguồn lực.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG QUYỀN TỰ CHỦ CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

Để tự chủ đại học đi vào thực chất, nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu của các trường, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sau khi được sửa đổi. Trong quá trình sửa đổi Luật Giáo dục đại học, một số vấn đề về tự chủ của các trường đại học công lập đặc biệt cần làm rõ như: quan niệm về tự chủ đại học, quyền tự chủ đại học, nội dung và điều kiện tự chủ đại học; trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học tự chủ; hoàn thiện, bổ sung và xác định rõ cơ chế quản trị đại học nói chung và vị trí, vai trò của Hội đồng trường nói riêng… Đề xuất xem xét sửa đổi các luật có liên khác như Luật Đầu tư công, Luật Viên chức v.v. để các trường đại học được thực hiện tự chủ thực sự.

Hai là, chuyển từ cơ chế quản lý trực tiếp sang cơ chế điều tiết, hỗ trợ bằng công cụ vĩ mô. Nhà nước chỉ quy định về khung trình độ quốc gia, chuẩn kỹ năng nghề nghiệp quốc gia để từ đó các cơ sở giáo dục đại học sẽ xây dựng mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra cho người học đáp ứng các chuẩn nói trên. Các cơ sở giáo dục đại học có thể hoàn toàn tự chủ trong việc tuyển sinh, tổ chức đào tạo. Đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm tra và đánh giá chất lượng đào tạo của các trường đại học. Trên quan điểm tự chủ là tạo điều kiện cho các trường đại học chủ động trong học thuật, đào tạo và nghiên cứu. Song Nhà nước vẫn cần phát huy vai trò trong quản lý và đánh giá chất lượng đạo tạo của các trường thông qua việc thành lập các cơ quan đánh giá chất lượng và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá.

Ba là, điều chỉnh mức thu học phí với mục tiêu là học phí tiến tới bù đắp được chi phí đào tạo cần thiết để đạt chất lượng đáp ứng yêu cầu đặt ra. Chuyển học phí từ danh mục tính phí sang tính giá dịch vụ. Đối với các dịch vụ khác thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo (dịch vụ sự nghiệp công có sử dụng ngân sách nhà nước và dịch vụ không sử dụng ngân sách nhà nước) cần hướng dẫn các cơ sở giáo dục đại học tự chủ thực hiện mức thu theo cơ chế giá dịch vụ hợp lý. Đồng thời, cần đảm bảo mức thu học phí phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Nghiên cứu, đề xuất để thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người học có hoàn cảnh khó khăn.

Bốn là, sớm hoàn thiện cơ chế chính sách để các trường đại học được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính; tự cân đối thu chi một cách độc lập, minh bạch. Từ đó phát huy thế mạnh sẵn có của mỗi trường đại học trong việc tìm kiếm nguồn thu và khai thác, sử dụng nguồn thu đạt được mục tiêu nhất định.

Năm là, đối với bản thân các cơ sở giáo dục đại học cần năng động, sáng tạo trong việc tự chủ khai thác nguồn thu khác ngoài học phí dựa trên lợi thế sẵn có của mỗi trường và cân đối nhiệm vụ chi. Tăng cường hợp tác công – tư để tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (2012). Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13

2. Chính phủ (2015). Nghị định số 86/2015 ngày 2/10/2015 về Quy định cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm 2015-2016 đến năm học 2020-2021

3. Thủ tướng Chính phủ (2014). Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 về Ban hành điều lệ trường đại học

4. Vũ Tiến Dũng (2021). Tự chủ đại học ở Việt Nam – xu thế tất yếu, Tạp chí Khoa học quản lý giáo dục, số 1 tháng 3

5. World Bank (2020). Higher Education Sector Report Improving the Performance of Higher Education in Vietnam: Strategic Priorities and Policy Options

6. Thomas Estermann (2015). University autonomy in Europe, University Education, No.3

ThS. Lương Vân Hà – Học viện Ngân hàng