Đây là thông tin được bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó vụ trưởng Vụ Dân số và Lao động (Tổng cục Thống kê) cho biết tại buổi Họp báo về tình hình lao động việc làm quý IV và năm 2021 và Chỉ số phát triển con người của Việt Nam giai đoạn 2016-2020 được tổ chức sáng ngày 6/1/2022.

Việt Nam gia nhập nhóm các quốc gia có HDI đạt mức cao trong năm 2019 và 2020
Bà Nguyễn Thị Thanh Mai cho biết, thứ hạng HDI của Việt Nam trong các quốc gia, vùng lãnh thổ thế giới tăng từ vị trí 118 năm 2018 lên 117 năm 2019.

Báo cáo HDI là kết quả của sự phối hợp giữa Tổng cục Thống kê với các bộ, ngành, địa phương và sự hỗ trợ kỹ thuật của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Trên cơ sở phương pháp tính HDI đang được các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế thống nhất áp dụng, Báo cáo đã thu thập thông tin đầu vào để biên soạn các chỉ tiêu tổng hợp HDI của cả nước và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2016-2020.

Báo cáo đi sâu phân tích các chỉ tiêu HDI đã tính toán, tổng hợp được; góp phần phản ánh động thái và thực trạng kinh tế – xã hội của đất nước những năm vừa qua trên 3 tiêu chí quan hệ trực tiếp đến mỗi người dân, đó là: sức khỏe, giáo dục và thu nhập. Ngoài ra, Báo cáo còn tập trung làm rõ phương pháp tính, nguồn số liệu sử dụng cũng như cung cấp các biểu tổng hợp kết quả tính HDI của Việt Nam và 63 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2016-2020.

HDI của Việt Nam tăng đều qua các năm

Tại buổi họp báo, bà Nguyễn Thị Thanh Mai cho biết, kết quả của Báo cáo cho thấy, trong giai đoạn 2016-2020, HDI của cả nước và hầu hết 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng qua các năm. Cụ thể, HDI của cả nước tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,687 năm 2017; 0,693 năm 2018; 0,703 năm 2019 và 0,706 năm 2020. Theo đó, Việt Nam từ Nhóm các quốc gia, vùng lãnh thổ có HDI trung bình năm 2018 và những năm trước đó đã gia nhập Nhóm đạt mức cao trong năm 2019 và năm 2020. Thứ hạng HDI của Việt Nam trong các quốc gia, vùng lãnh thổ thế giới tăng từ vị trí 118 năm 2018 lên 117 năm 2019 và có thể tiếp tục được cải thiện trong năm 2020 khi UNDP cập nhật Bảng xếp hạng.

Bên cạnh đó, với mức độ đóng góp khác nhau, tăng trưởng HDI giai đoạn 2016-2020 của cả nước và 63 địa phương có sự đóng góp của cả 3 chỉ số thành phần do các chỉ số này cũng đạt được mức tăng và tốc độ tăng. Chỉ số sức khỏe của cả nước tăng từ 0,822 năm 2016 lên 0,823 năm 2017 và năm 2018; 0,825 năm 2019 và đạt 0,826 năm 2020. Chỉ số giáo dục 5 năm tương ứng đạt lần lượt là: 0,618; 0,621; 0,625; 0,641 và 0,640; Chỉ số thu nhập là: 0,624; 0,634; 0,648; 0,659 và 0,664.

Nhìn chung các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đạt được HDI năm 2020 cao hơn năm 2016. Năm 2020, tuy không địa phương nào có HDI được xếp vào Nhóm 1, là nhóm đạt mức rất cao; nhưng cũng không địa phương thuộc Nhóm 4, là nhóm thấp nhất theo tiêu chuẩn phân chia nhóm của UNDP. Các địa phương đều thuộc Nhóm 3, là nhóm có HDI ở mức trung bình và Nhóm 2, là nhóm có HDI đạt mức cao. Đáng chú ý là, nhóm đạt mức cao đã tăng từ 13 địa phương năm 2016 lên 14 địa phương năm 2017; 18 địa phương năm 2018; 21 địa phương năm 2019 và 24 địa phương năm 2020.

Một kết quả quan trọng khác là, nhiều địa phương có HDI thấp, nhưng đạt tốc độ tăng nhanh hơn địa phương có HDI cao, khoảng cách chênh lệch HDI giữa các địa phương thu hẹp dần. Năm 2020, HDI bình quân của 10 địa phương đạt mức cao nhất là 0,773, tăng 2,71% so với năm 2016. Trong khi đó, HDI của 10 địa phương có mức thấp nhất là 0,626, tăng 5,02%; gấp 1,85 lần tốc độ tăng bình quân của 10 địa phương đạt mức cao nhất. Do vậy, mức chênh lệch HDI bình quân của 10 địa phương đạt cao nhất so với 10 địa phương có mức thấp nhất đã giảm từ 26,38% năm 2016 xuống còn 23,61% năm 2020.

Xây dựng một hệ thống các giải pháp đồng bộ và triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả

Tuy nhiên, Phó vụ trưởng Vụ Dân số và Lao động cũng cho biết, mặc dù HDI của Việt Nam đạt được những thành tựu rất quan trọng, nhưng Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với một số vấn đề đáng quan ngại trong phát triển con người. Cụ thể là: HDI của cả nước và hầu hết các địa phương đều tăng, nhưng tốc độ tăng thấp. Năm 2020, HDI của cả nước đạt 0,706, chỉ tăng 0,024 so với năm 2016 với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 0,9%. HDI của cả nước tuy đã chuyển từ Nhóm 3 lên Nhóm 2, nhưng mới ở mức thấp của Nhóm 2. Trong Bảng xếp hạng HDI thế giới, thứ hạng của Việt Nam cải thiện không nhiều và trong khu vực Đông Nam Á vẫn xếp thứ 7/11 quốc gia.

Sự đóng góp của các chỉ số thành phần vào cấu thành HDI không lớn do tăng chậm. Chỉ số sức khỏe của cả nước năm 2020 chỉ tăng 0,004 so với năm 2016 với tốc độ tằng bình quân mỗi năm là 0,12%; Chỉ số giáo dục tăng 0,022 với tốc độ tăng 0,88%/năm; Chỉ số thu nhập tăng 0,040 với tốc độ tăng 1,57%/năm.

Bên cạnh đó, HDI và các chỉ số thành phần của nhiều địa phương vùng núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn thấp. Mặc dù đạt được tốc độ tăng tương đối cao trong những năm 2016-2020 vừa qua, nhưng HDI của Lai Châu năm 2020 mới đạt 0,582, bằng 82,44% HDI của cả nước; Hà Giang đạt 0,591, bằng 83,71%; Điện Biên đạt 0,602, bằng 85,27%; Gia Lai đạt 0,624, bằng 88,39%.

Chính vì vậy, bà Nguyễn Thị Thanh Mai đề xuất, cần xây dựng một hệ thống các giải pháp đồng bộ và triển khai thực hiện quyết liệt và hiệu quả; đặc biệt là các giải pháp tăng cường dịch vụ y tế, giáo dục, vì các lĩnh vực này liên quan trực tiếp đến phát triển con người. Trong y tế, cần tập trung nâng cao năng lực y tế dự phòng, y tế cơ sở và y tế gia đình. Trong giáo dục, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng số năm đi học kỳ vọng đang ở mức thấp và tăng chậm hiện nay. Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao, cần có giải pháp vĩ mô ổn định giá trị đồng nội tệ, từ đó, nâng cao sức mua tương đương trong so sánh quốc tế nói chung và quy đổi GNI bình quân đầu người tính Chỉ số thu nhập cấu thành HDI nói riêng. Đây cũng là giải pháp góp phần nâng cao thu nhập thực tế của dân cư. Ngoài ra, cần sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương trong việc thu thập, tổng hợp đầy đủ thông tin đầu vào biên soạn HDI và HDR…/.