Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế hộ kinh doanh

Chia sẻ về bức tranh hoạt động của các hộ kinh doanh, tại tọa đàm các chuyên gia đều thống nhất cho rằng hộ kinh doanh (HKD) đang ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là một trong những chủ thể sản xuất, kinh doanh quan trọng, đóng góp cao cho GDP cả nước. Theo báo cáo thống kê sơ bộ được Tổng cục Thống kê công bố, trước khi bùng phát dịch Covid-19 vào đầu năm 2020, cả nước ghi nhận có khoảng 5,37 triệu HKD, cao hơn khoảng 9 lần so với tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam. Đây được coi là một khu vực kinh tế quan trọng, đặc biệt trong việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm, với tổng số lao động tham gia trong khu vực này ghi nhận khoảng 9 triệu người trong năm 2019.

Gỡ khó cho hộ kinh doanh sớm phục hồi trong bối cảnh bình thường mới

Tuy nhiên, khu vực kinh tế HKD còn tồn tại nhiều điểm hạn chế; việc quản lý hoạt động của các HKD cũng còn nhiều bất cập, đặc biệt là vấn đề quản lý thuế và các nghĩa vụ khác với xã hội và người lao động. Ở thời điểm hiện tại, việc quản lý đối tượng hộ kinh doanh vẫn chưa có một khung pháp lý cụ thể, cho dù điều này đã được đề cập trong một văn bản pháp lý có từ năm 2006, và được điều chỉnh một vài điều khoản có trong Luật Doanh nghiệp ban hành lần lượt vào các năm 1999, năm 2005, năm 2014 và mới đây nhất là năm 2020. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã và đang ban hành nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho nhóm hộ kinh doanh chuyển đổi lên mô hình doanh nghiệp, nhưng kết quả không mấy khả quan và không được các HKD đón nhận.

Từ năm 2020 đến nay, HKD cũng như các doanh nghiệp khác chịu vô vàn khó khăn bởi vì các làn sóng dịch Covid-19 tấn công nền kinh tế, cũng như chịu ảnh hưởng tiêu cực từ các biện pháp phòng chống dịch bệnh của các cơ quan nhà nước. Điều này đã đặt ra vấn đề cấp thiết cần nhận định rõ và chỉ ra các thách thức, khó khăn, rào cản thể chế, chính sách và tiếp cận vốn tín dụng mà HKD đang gặp phải. Đặc biệt là các khó khăn thách thức đối với sản xuất kinh doanh của HKD trong đại dịch Covid – 19; đồng thời, đưa ra những hàm ý chính sách để tháo gỡ các vấn đề và khó khăn còn tồn tại liên quan đến hộ kinh doanh.

Trong bối cảnh này, VEPR đã thực hiện nghiên cứu khảo sát với mục tiêu xác định những hạn chế, khó khăn trong hoạt động của HKD từ góc độ pháp lý cũng như thực tế hoạt động; lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các hạn chế, khó khăn này tới kết quả kinh doanh và khả năng phát triển của các nhóm HKD khác nhau (phân theo quy mô và lĩnh vực hoạt động). Đồng thời, nghiên cứu cũng xem xét những hạn chế về khung pháp lý hiện tại trong việc quản lý hoạt động của hộ gia đình, đăc biệt là trong việc thực hiện nghĩa vụ với xã hội (với ngân sách, với quyền lợi người lao động, …) của khu vực này. Từ đó, đưa ra những gợi ý về chính sách để các cơ quan quản lý xem xét, có những điều chỉnh cần thiết nhằm hỗ trợ tốt hơn cũng như quản lý hiệu quả hơn với khu vực kinh tế này với những chính sách hỗ trợ về công tác quản lý và phát triển kinh doanh.

Dựa trên những kết quả khảo sát thu được từ 1.016 hộ kinh doanh được thu thập bởi 161 Chi nhánh BIDV trên 63 tỉnh thành , nhóm nghiên cứu hợp tác giữa ba bên đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Viện FNF tại Việt Nam tập trung tổng hợp, phân tích và đánh giá những tác động của sáu nhân tố đến hoạt động của nhóm hộ kinh doanh, gồm: Lợi thế so sánh, Tính tương đương giữa các hình thức kinh doanh, Hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, Các rào cản chính sách khi tiếp cận vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Mong muốn được hỗ trợ trong tiếp cận vốn từ ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, và Giải pháp khuyến khích thành lập doanh nghiệp kinh doanh.

Những phát hiện đáng chú ý

Chia sẻ về kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh và những thách thức, khó khăn của hộ kinh doanh. TS. Nguyễn Quốc Việt, Viện phó Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, trưởng nhóm chuyên gia thực hiện khảo sát đã nêu lên nhiều phát hiện rất đáng chú ý.

Cụ thể, xét về lợi thế so sánh giữa doanh nghiệp và HKD, theo TS Việt, kết quả mô hình đã cho thấy lợi thế so sánh của các HKD ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển sản xuất, kinh doanh, tương ứng 1 điểm khác biệt trên thang đo về lợi thế so sánh là 0.35 điểm khác biệt về mức độ tăng doanh thu của HKD. Lợi thế này có thể được thể hiện dựa trên vấn đề đặt ra là hộ kinh doanh có được thừa nhận là một đơn vị kinh tế chính thức hay không và có được pháp luật bảo vệ tốt hơn trong các quan hệ đối tác hay không.

Đề cập về sự cần thiết cần tháo gỡ khó khăn của HKD trước và trong dịch Covid-19, nhóm chuyên gia khảo sát nhấn mạnh việc hỗ trợ tháo gỡ khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của HKD, nhất là các hỗ trợ về miễn giảm thuế, thủ tục đóng cửa, tạm thời ngừng kinh doanh, hỗ trợ về tín dụng ngắn hạn vượt qua giai đoạn khó khăn và những hỗ trợ về thủ tục pháp luật và tài chính gần gũi nhất với các HKD. Đặc biệt khi tình hình kinh tế có những biến động bất thường chẳng hạn như thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng các chính sách hỗ trợ tháo gỡ khó khăn càng thể hiện ảnh hưởng mạnh mẽ đến phát triển sản xuất kinh doanh của hộ.

Đáng chú ý, liên quan đến các hỗ trợ của nhà nước về tín dụng của ngân hàng đối với HKD trong điều kiện dịch Covid-19, kết quả khảo sát cho thấy các rào cản chính sách khi hộ kinh doanh tiếp cận vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng có ảnh hưởng ngược chiều đến mức độ tăng doanh thu của HKD. Điều này chứng minh được rằng vướng mắc trong tiếp cận vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng là những nhân tố tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển sản xuất kinh doanh của HKD.

Bên cạnh đó, khảo sát cũng chỉ ra rằng các chính sách hỗ trợ vay vốn tín dụng của nhà nước vẫn còn có sự không rõ ràng, chưa tiếp cận được với nhiều hộ kinh doanh. Đa phần HKD cho rằng hỗ trợ tín dụng nhà nước mới tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, còn các lĩnh vực khác chưa có chính sách hỗ trợ tín dụng cụ thể. “Nếu nhà nước có các chính sách hỗ trợ cho các HKD tiếp cận được với các nguồn tài chính tín dụng, hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng, thì các HKD có thêm nguồn vốn để hoàn thành các nghĩa vụ tài chính, và mở rộng sản xuất kinh doanh sau khi đại dịch được kiểm soát”, TS Việt nhấn mạnh.

Chia sẻ cụ thể về các rào cản vướng mắc mà hộ kinh doanh đang gặp phải trong tiếp cận tín dụng, đại diện nhóm nghiên cứu cũng cho biết đây là vấn đề mà phần lớn hộ kinh doanh đang phải đối mặt, thể hiện ở khá nhiều đánh giá tiêu cực trong khảo sát. Đa phần các Hộ kinh doanh phản ánh về việc họ chỉ nhận được tiếp cận tín dụng khi phải dùng tài sản cá nhân mà chủ yếu là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà để đảm bảo cho khác khoản vay của ngân hàng, trong khi đó tỷ lệ giá trị được vay trên giá trị tài sản bảo đảm lại rất thấp. Có tới 50% hộ kinh doanh tham gia khảo sát phản hồi thời hạn cho vay ngắn, 43% cho biết thủ tục vay vốn của các Ngân hàng vẫn còn rườm rà.

Dựa trên kết quả khảo sát thu được, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra những tác động ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi và các chính sách hỗ trợ phù hợp cho sự phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh của HKD trong điều kiện bình thường mới. Theo đó, nhóm chuyên gia đề xuất cần tăng cường hỗ trợ HKD nâng cao lợi thế kinh doanh, mở rộng các chính sách hỗ trợ tiếp cận vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích HKD tiếp cận với các cơ quan quản lý hành chính, có các chính sách khuyến khích phát triển và hỗ trợ khó khăn cho các HKD trong bối cảnh mới, đồng thời thúc đẩy và cải tiến các điều kiện khuyến khích, thúc đẩy thành lập doanh nghiệp kinh doanh./.