TTXVN tại Tokyo cho biết, theo số liệu thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), mức thu nhập trung bình hàng năm của Nhật Bản tại thời điểm năm 2020 (khi tỷ giá quy đổi là 1 USD tương đương 110 yen) là 4,24 triệu yen, xếp thứ 22/35 quốc gia thành viên.

Kinh tế Nhật đứng trước nguy cơ mất vị thế thứ ba thế giới
Theo Giáo sư Takatoshi Ito, Chính phủ Nhật Bản cần đầu tư vào giáo dục, nhằm củng cố các kỹ năng cho người lao động thích ứng với sự phát triển của thời đại mới
Cơ chế “làm việc trọn đời” vẫn là vấn đề cố hữu của hệ thống việc làm ở Nhật Bản, dẫn đến sự hạn chế dịch chuyển nguồn nhân lực sang các ngành nghề tăng trưởng tốt…

Như vậy, trong khi thu nhập trung bình của người dân Mỹ tăng 2,5 triệu yen trong 30 năm thì tại Nhật Bản, con số này hầu như không thay đổi và đã bị nước láng giềng Hàn Quốc vượt qua với mức 4,62 triệu yen.

Lý giải về điều này, báo Mainichi đã dẫn phân tích của Giáo sư Takatoshi Ito thuộc Trường Đại học Columbia, thành viên Hội đồng tư vấn tài chính kinh tế của Chính phủ Nhật Bản, chỉ ra những vấn đề tồn tại trong nền kinh tế Nhật Bản hiện nay.

Thứ nhất, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhiều công ty lớn của Nhật Bản đã phá sản, giống như Công ty chứng khoán Yamaichi. Do đó, tồn tại đã trở thành ưu tiên hàng đầu của cả giới quản lý và giới lao động tại quốc gia Đông Bắc Á này. Các tổ chức công đoàn gần như không còn mặn mà với việc đòi hỏi mức thu nhập cao hơn nhằm tránh rơi vào trường hợp bị loại bỏ vì tái cơ cấu.

Tương ứng với điều này, các doanh nghiệp Nhật Bản đã cố gắng duy trì việc làm và thậm chí cố gắng giảm lương của nhân viên. Sau thời điểm đó, nền kinh tế khởi sắc với sự gia tăng dần của hiệu quả lao động, nhưng các doanh nghiệp Nhật Bản đã quen với việc không muốn tăng các chi phí cố định và lựa chọn phương án tiền thưởng thay vì tăng lương cho người lao động.

Sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát, tình trạng thiếu hụt lao động trở nên trầm trọng. Về lý thuyết, càng thiếu lao động thì các công ty càng phải tăng lương để giữ nhân viên, ngay cả những nhân viên mới tuyển dụng cũng cần tăng lương mới có thể chọn được người tài đích thực.

Tuy nhiên, các công ty đều viện cớ mức lương trung bình đã được cố định tại Nhật Bản nên hầu như không có động thái nào về tăng lương. Ngay cả khi công việc kinh doanh được hồi phục, phần lợi nhuận không được ưu tiên chi trả thêm thu nhập cho nhân viên, thay vào đó tập trung đầu tư ra nước ngoài. Điều này góp phần tạo ra tình trạng thu nhập của người lao động thực tế tại Nhật Bản nhận được vẫn ở mức thấp.

Thứ hai, cơ chế “làm việc trọn đời” vẫn là vấn đề cố hữu của hệ thống việc làm ở Nhật Bản, dẫn đến sự hạn chế dịch chuyển nguồn nhân lực sang các ngành nghề tăng trưởng tốt với mức đãi ngộ cao hơn. Ở Mỹ, dù người lao động bị sa thải do suy thoái kinh tế nhưng họ vẫn có thể lựa chọn quay lại công ty cũ làm việc hoặc tìm đến một công ty khác và mức thu nhập chắc chắn được cải thiện. Chính tư duy này đã khuyến khích sự dịch chuyển từ các ngành nghề trì trệ sang các ngành nghề tăng trưởng tốt.

Ở Nhật Bản, nhiều lao động khi còn trẻ chấp nhận làm việc với mức thu nhập rẻ mạt và hướng tới mục tiêu sẽ nhận được đãi ngộ cao sau 50 tuổi, ngay cả khi lúc đó không làm quá nhiều việc. Điều này cổ xúy cho quan niệm của phần lớn lao động trẻ tại Nhật Bản là sẽ cống hiện trọn đời cho một công ty duy nhất. Chính vì thế, điều cốt lõi hiện nay của “Xứ hoa anh đào” là phải thay đổi cơ chế tiền lương, chi trả xứng đáng với mức đóng góp của người lao động tại thời điểm họ cống hiến cho công ty, thay vì tập trung chi trả tiền lương căn cứ vào thâm niêm làm việc.

Nhận ra thực trạng vấn đề tiền lương của người lao động, Chính quyền Thủ tướng Kishida đã phát động phong trào khuyến khích chủ doanh nghiệp tăng lương cho người lao động, thông qua giảm thuế cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là chính sách thiếu bền vững vì bản chất của tăng lương phải nhờ vào cải thiện năng suất lao động chứ không phải nhờ vào giảm thuế.

Việc cần làm hiện nay của Chính phủ Nhật Bản là đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống giáo dục thường xuyên nhằm củng cố các kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thích ứng với sự phát triển của thời đại mới và khuyến khích sự dịch chuyển nguồn nhân lực sang các các ngành nghề tăng trưởng lợi nhuận cao.

Ngoài ra cũng cần cải thiện môi trường để cho ra đời nhiều hơn các doanh nghiệp mạnh giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Ở Mỹ, ngoài hãng xe điện Tesla, các tập đoàn công nghệ mới như nhóm GAFA (bao gồm Google, Apple, Facebook và Amazon) được tạo điều kiện rất lớn để phát triển tạo đột phá, trong khi trong vòng 10-20 năm trở lại đây, Nhật Bản không hề có một doanh nghiệp tương tự như vậy.

Bên cạnh đó, mặt trái của việc duy trì vật giá ở mức thấp và đồng yen mất giá trị chính là rào cản khiến cho sức mạnh kinh tế Nhật Bản bị giảm sút. Đồng yen Nhật giảm giá đã khiến gánh nặng chi phí du học ở nước ngoài nặng hơn trong khi sức mua và thu nhập trung bình của người lao động không được cải thiện. Điều này khiến Nhật Bản không còn là điểm đến hấp dẫn của nguồn nhân lực xuất sắc từ Mỹ, châu Âu và ngay cả các nước châu Á.

Theo Giáo sư Takatoshi Ito, nếu không nhìn nhận đúng đắn về thực trạng này để có những hoạch định chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản sẽ còn tiếp tục tụt hậu hơn và trong tương lai sẽ khó giữ được vị thế là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới như hiện nay./.