Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 610/CĐ-TTg, sáng 4/8/2023, tại TP Cần Thơ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND TP. Cần Thơ tổ chức Hội nghị triển khai công tác điều hành xuất khẩu gạo nhằm sơ kết tình hình xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2023 và bàn phương hướng điều hành xuất khẩu những tháng cuối năm 2023.

Hội nghị do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam, Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ Trần Việt Trường chủ trì.

Tham dự Hội nghị có gần 200 đại biểu từ các bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo các địa phương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo…

Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, những tháng đầu năm 2023, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động nhanh, phức tạp, khó lường, đã tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế nước ta nói chung, hoạt động thương mại gạo nói riêng.

Ổn định thị trường gạo nội địa, tận dụng thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu
Hội nghị triển khai công tác điều hành xuất khẩu gạo

Song, dưới sự chỉ đạo, điều hành đồng bộ, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương đã chủ động, sáng tạo triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần mang lại những thành tựu chung của nền kinh tế, trong đó xuất khẩu gạo đạt được những kết quả tích cực.

Theo đó, xuất khẩu gạo 7 tháng đầu năm tăng mạnh cả về sản lượng và giá trị so với cùng kỳ năm trước (tăng 18,7% về lượng và tăng gần 30% về trị giá). Cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu chuyển dịch tích cực, đúng hướng, giúp gia tăng giá trị cho sản phẩm gạo Việt Nam.

Hầu hết các thị trường xuất khẩu gạo của nước ta đều ghi nhận mức tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu gạo sang các thị trường khu vực Đông Nam Á tăng trưởng vượt bậc; các thị trường xuất khẩu truyền thống, trọng điểm được tiếp tục giữ vững. Ngoài ra, khu vực thị trường EU cũng ghi nhận sự tăng trưởng cao (gần 30%).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta thời gian qua cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần tập trung xem xét, giải quyết.

Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu tập trung vào một số thị trường truyền thống, trọng điểm; chưa chú trọng khai thác các thị trường mới, còn nhiều tiềm năng. Công tác quy hoạch vùng trồng và định hướng tổ chức sản xuất lúa/gạo còn hạn chế; chưa thực sự phù hợp với tín hiệu của thị trường. Việc thực hiện liên kết 4 nhà (Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà sản xuất – Nhà ngân hàng) trong sản xuất nông nghiệp chưa tốt. Vì vậy, vẫn còn tình trạng sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ, hiệu quả thấp.

Việc tạo lập, phát triển các cơ chế liên kết, hợp tác giữa các thương nhân kinh doanh, xuất khẩu gạo với người sản xuất chưa được chú trọng. Do vậy chưa bảo đảm được nguồn hàng ổn định và có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các thị trường nhập khẩu. Việc liên kết, hợp tác giữa các thương nhân với nhau cũng chưa thật tốt, dẫn đến vẫn còn tình trạng tranh mua, tranh bán, tranh thị trường và ép cấp, ép giá trong hoạt động thu mua, kinh doanh, xuất khẩu gạo.

Ổn định thị trường gạo nội địa, tận dụng thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại Hội nghị

Đặc biệt, tình hình sản xuất và thương mại lương thực toàn cầu đang diễn biến phức tạp, khó lường do tác động bởi nhiều yếu tố, tình hình địa chính trị, địa kinh tế trong khu vực và thế giới. Giá gạo toàn cầu đã tăng mạnh, đạt mức giá cao nhất trong 11 năm qua, mang lại những cơ hội và thách thức đan xen cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Bộ trưởng nhấn mạnh. Việc tận dụng thời cơ về giá để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu gạo, khai thác thị trường truyền thống và mở rộng thị trường tiềm năng cần khẩn trương, nhưng gắn với đó phải giữ được thương hiệu gạo đã xây dựng thời gian qua, đồng thời đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia.

Việt Nam sẽ xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo

Thông tin tại hội nghị, ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: Mặc dù trong 6 tháng đầu năm 2023, thương mại gạo toàn cầu diễn biến còn phức tạp, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như biến động địa chính trị, lạm phát, giá nguyên liệu sản xuất leo thang…, nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Công Thương và các bộ, ngành về các giải pháp khơi thông thị trường, lưu thông hàng hóa, việc thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2023 đã đạt được những kết quả tích cực.

Theo số liệu ước tính của liên Bộ, đến hết tháng 7/2023, Việt Nam sẽ xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, trị giá 2,58 tỷ USD, tăng 18,7% về lượng và tăng 29,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân ước đạt 534 USD/tấn, tăng 9,2% so cùng kỳ năm 2022.

Ổn định thị trường gạo nội địa, tận dụng thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu
Ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, ước tính đến hết tháng 7/2023, Việt Nam xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo

Xuất khẩu gạo tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng tại thị trường truyền thống, thị trường có FTA thế hệ mới, trong đó khu vực thị trường châu Á tiếp tục là thị trường khu vực xuất khẩu lớn nhất trong 6 tháng năm 2023, đạt gần 3,3 triệu tấn, chiếm 77,7% tổng lượng xuất khẩu, tăng 35,8% so với cùng kỳ năm 2022.

Một số thị trường truyền thống tiếp tục tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2022, cụ thể: Philippines – thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần 40,1% tổng lượng xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2023 (tương đương xuất khẩu đạt gần 1,7 triệu tấn) tăng 7% so với cùng kỳ năm 2022. Đứng thứ 2 là Trung Quốc chiếm trên 16% trong tổng lượng xuất khẩu (tương đương 677,4 nghìn tấn) tăng 60,7% so với cùng kỳ năm 2022. Indonesia đứng thứ 3, chiếm 11,6% trong tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước (tương đương 492,8 nghìn tấn) tăng 15 lần về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022.

Cũng theo ông Đông, trong quý I/2023, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục biến đổi phức tạp, nhu cầu dự trữ lương thực của các nước tăng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ở mức cao, dao động khoảng 450 USD/tấn, có thời điểm vượt qua giá gạo Thái Lan cùng chủng loại. Bước sang quý II, nhu cầu nhập khẩu gạo của các thị trường tiếp tục tăng trong khi nguồn cung gạo từ các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới như: Ấn Độ, Pakistan tiếp tục hạn chế; gạo Thái Lan tăng do đồng Baht tăng giá trở lại, giá tiếp tục theo đà tăng của giá gạo thế giới. Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 535 USD/tấn vào tháng 5 năm 2023.

Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo non-basmati (phi basmati) là yếu tố dẫn đến giá gạo xuất khẩu các nước tăng mạnh. Giá gạo 5% tấm của Việt Nam tăng 25 USD/tấn so với thời điểm lệnh cấm được ban hành. Tính đến ngày 1/8/2023, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đạt trung bình 590 USD/tấn, mức giá cao nhất trong 11 năm qua, tăng khoảng 80 USD so với tháng trước, thấp hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan khoảng 35 USD/tấn. Đối với các dòng gạo thơm, giá xuất khẩu trung bình gạo Jasmine Việt Nam ghi nhận ở mức 690 USD/tấn, tăng khoảng 80 USD so với tháng trước.

Tại nội địa, ngay khi có thông tin về lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, giá thóc gạo trong nước tăng nhanh theo từng ngày (trung bình mỗi ngày tăng từ 50 – 100 đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu tại một số địa phương đã tăng từ 400 – 500 đồng/kg so với thời điểm ngày 20/7/2023 (lệnh cấm có hiệu lực). Giá một số chủng loại ghi nhận ngày 27/7/2023 như: giá gạo IR50404 đạt 10.750 đồng/kg, tăng 5% so với ngày 20/7 (tương đương tăng 500 đồng/kg); giá gạo OM5451 đạt 11.000 đồng/kg, tăng 5% (tương đương tăng 550 đồng/kg); giá gạo Đài Thơm 8 đạt 11.300 đồng/kg, tăng 6% (tương đương tăng 650 đồng/kg)…

Tại hội nghị, Cục Xuất nhập khẩu đã phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới tình hình xuất khẩu gạo các tháng cuối năm. Cụ thể, theo báo cáo công bố ngày 14/7/2023 của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng gạo thế giới năm 2023/2024 được dự báo đạt mức 520,8 triệu tấn, tăng 8 triệu tấn so với cùng kỳ năm trước. Tổng lượng tiêu thụ trên toàn cầu năm 2023/2024 dự kiết đạt mức kỷ lục 523,9 triệu tấn, cao hơn 2,5 triệu tấn so với năm 2022, vượt sản lượng gạo dự kiến 3,1 triệu tấn. Thương mại toàn cầu năm 2024 dự kiến đạt 56,3 triệu tấn, tăng hơn 1% so với năm trước.

Trong khi đó, lượng gạo tồn kho năm 2023/2024 được USDA dự báo đạt 170,4 triệu tấn, thấp hơn 1,8% so với năm trước và là mức tồn cuối vụ thấp nhất kể từ niên vụ 2017/2018, do nhiều quốc gia tăng xuất khẩu, đặc biệt là tại khu vực châu Á- Thái Bình Dương như: Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia…

Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt nguồn cung lương thực toàn cầu do tác động từ lệnh cấm của Ấn Độ, Sáng kiến ngũ cốc Biển Đen bị đổ vỡ, biến đổi khí hậu thay đổi điều kiện gieo trồng… sẽ làm suy giảm nguồn cung và giá lương thực tăng cao.

Do đó, hầu hết các quốc gia đều đang xem xét kỹ các tác động từ bối cảnh thị trường toàn cầu để nhanh chóng đưa ra các biện pháp hỗ trợ sản xuất trong nước và bình ổn giá cả lương thực nội địa. Chẳng hạn tại Thái Lan, Chủ tịch danh dự của Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan, cho biết lệnh cấm của Ấn Độ cần được đánh giá thận trọng, cân nhắc kỹ do có thể ảnh hưởng đến giá gạo nội địa và có thể khiến các nhà máy xay xát gạo và các nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan trì hoãn các đơn đặt hàng gạo để đánh giá tác động.

Ở Ấn Độ, nhiều thương nhân nước này cho biết, họ có thông tin về việc Ấn Độ đã xem xét về lệnh cấm và cho rằng lệnh sẽ được ban hành vào khoảng tháng 8 – 9/2023, nên vẫn tiến hành ký kết hợp đồng, nhận thư tín dụng (LC) để đảm bảo thanh toán như thường lệ. Tuy nhiên, lệnh cấm diễn ra quá đột ngột và chỉ cho phép hàng hóa đã vào cảng được chuyển đi, ngoài ra các hợp đồng dù có LC vẫn phải hủy bỏ. Vì vậy, tuy trước lệnh cấm, nước này có thể xuất khẩu 500 nghìn tấn gạo phi basmati/tháng, thì trong tháng 7/2023, chỉ đạt 200 nghìn tấn hàng tại cảng được phép xuất khẩu.

Còn tại Campuchia, Bộ Nông Lâm Thủy sản Campuchia cho biết, giá gạo của các giống IR và OM đang đạt mức cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Liên đoàn Lúa gạo Campuchia (CRF) cho biết, giá gạo IR hiện ở mức 1.047 riel/kg (6.000 đồng/kg), trong khi gạo OM có giá 1.029 riel/kg (5.900 đồng/kg). Loại gạo thơm sen kra’op (SKO) đắt tiền hơn đã có giá tương đối ổn định trong ba năm qua, trung bình từ 1.000 đến 1.260 riel/kg (7.233 đồng/kg).

Với các nhà nhập khẩu gạo, Chủ tịch Phòng Nông nghiệp và Lương thực Philippines (PCAFI) cho biết, lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ sẽ làm tăng hoạt động đầu cơ và cạnh tranh, chuyển đơn hàng nhập khẩu các nước xuất khẩu gạo khác, đẩy giá lên cao, gây thêm áp lực lên giá gạo nội địa nước này.

Giám đốc quốc gia của Liên đoàn Nông dân Tự do (FFF) cho biết, các thương nhân hiện đang xem xét thông tin về nguồn cung và giá từ các quốc gia xuất khẩu gạo lớn như Việt Nam. Sau khi lệnh cấm có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp Philippines đã chấp nhận giá chào mới từ các doanh nghiệp Việt Nam để có hàng trong tháng 8 khi vụ Hè Thu thu hoạch.

Hay như Indonesia, nước này cũng phụ thuộc vào nhập khẩu để đảm bảo lượng gạo dự trữ trong nước. Vì vậy, việc thiếu hụt nguồn cung từ cả nội địa và nhập khẩu sẽ khiến giá gạo tăng cao. Sau khi hoàn thành triển khai đợt nhập khẩu 2 triệu tấn được thông báo vào tháng 3, dự kiến do tình hình lệnh cấm từ Ấn Độ, có khả năng Indonesia sẽ tiếp tục tiếp cận nguồn cung từ Việt Nam để bổ sung nhập khẩu gạo, kiềm chế lạm phát và tồn kho.

Từ những yếu tố trên, theo Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan có những định hướng điều hành xuất khẩu gạo từ nay đến hết năm 2023.

Sản lượng lúa gạo trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu nội địa và xuất khẩu

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ông Nguyễn Như Cường – Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết: Theo kế hoạch được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng từ đầu năm 2023, năm nay diện tích gieo trồng lúa của nước ta đạt khoảng 1,7 triệu ha, cho sản lượng 43 triệu tấn.

Đến thời điểm này, thông qua kiểm tra tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung Bộ, Đồng bằng sông Hồng, việc sinh trưởng phát triển của cây lúa khá thuận lợi, nếu không có phát sinh vấn đề đột xuất như dịch bệnh, thiên tai, bão lũ…. trên diện rộng, có thể nói năm 2023 chúng ta sẽ có một vụ mùa khá thắng lợi.

Về những lo ngại về ảnh hưởng của hiện tượng El Nino đối với sản xuất trồng trọt nói chung và lúa gạo nói riêng, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhìn lại các niên vụ 2015-2016 và 2019-2020, khi hiện tượng El Nino xuất hiện, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để tự tin khẳng định rằng chúng ta có nhiều giải pháp về bố trí thời vụ, cơ cấu giống, quy trình canh tác, cũng như các giải pháp về công trình như hệ thống thủy lợi để hạn chế mức độ ảnh hưởng của El Nino ở mức thấp nhất so với nhiều quốc gia trên thế giới.

Về tiến độ, tính đến ngày 1/8/2023, cả nước đã thu hoạch 24,2 triệu tấn thóc, gồm vụ Đông xuân khoảng 20 triệu tấn, vụ Hè thu khoảng 4,2 triệu tấn. Từ nay đến cuối năm, còn khoảng 18-19 triệu tấn thóc chờ thu hoạch. Từ đó, ông Nguyễn Như Cường khẳng định: Có thể có rủi ro, nhưng về cơ bản, với tình hình hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được nhu cầu nội địa và xuất khẩu.

Phát biểu tại hội nghị, đại diện lãnh đạo các địa phương đều nhận định, chúng ta cần tận dụng thời cơ này nhưng vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực cho nội địa. Tuy vậy, theo các địa phương, hiện nay việc tiếp cận các chính sách hỗ trợ đầu tư vào nông nghiệp còn khó khăn, chưa kịp thời, chưa sát với thực tiễn sản xuất, kinh doanh lúa, gạo.

Ổn định thị trường gạo nội địa, tận dụng thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu
Các đại biểu tại Hội nghị cùng chung nhận định, cần tận dụng thời cơ đẩy mạnh xuất khẩu gạo nhưng vẫn phải đảm bảo an ninh lương thực cho nội địa

Cụ thể, phần lớn các thương nhân đều đang khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng, nhất là nguồn vốn linh động. Trong khi giá lúa gạo trong những năm gần đây đầy biến động, thậm chí nguồn cung trong nước tại một số thời điểm bị mất cân đối. Do đó, hạn mức tín dụng thấp làm cho tiến độ thu mua của thương nhân bị ảnh hưởng đáng kể. Tại những thời điểm thu hoạch chính vụ, công tác thu mua lúa gạo gặp rất nhiều khó khăn, do ngân hàng không thể chủ động mở thêm hạn mức tín dụng (theo thời điểm) cho các thương nhân xuất khẩu gạo.

Chưa kể, giá cả thị trường nội địa trong thời gian qua biến động thất thường, có thời điểm tăng đột biến, nên ảnh hưởng đến giá cạnh tranh xuất khẩu, một số doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu với giá thấp không thu mua đủ nguyên liệu dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả.

Từ đó, các địa phương đề nghị cần có các chính sách hỗ trợ vốn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có xây dựng vùng nguyên liệu, có đầu tư kho chứa, nâng cấp, cải thiện dây chuyển máy móc sản xuất. Tạo điều kiện, hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ hợp tác và nông dân tiếp cận máy móc thiết bị, kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch, tăng khả năng và thời gian bảo quản, giảm áp lực cung cầu, chủ động giá bán cạnh tranh.

Có chính sách phát triển đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu gạo với quy mô, cơ cấu thị trường và sản phẩm xuất khẩu ổn định, bền vững; củng cố các thị trường xuất khẩu truyền thống, trọng điểm và phát triển các thị trường xuất khẩu mới, tiềm năng; gia tăng thị phần gạo Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu; đảm bảo hiệu quả xuất khẩu bền vững, khẳng định uy tín và thương hiệu gạo Việt Nam.

Đặc biệt, các địa phương cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung nguồn vốn, mở rộng, tăng hạn mức tín dụng để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của ngành lúa, gạo với thời hạn và lãi suất hợp lý; linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay; tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục cho vay để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng; đồng thời, đẩy mạnh triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng./.