3 lý do cần điều chỉnh sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng

Cụ thể theo ông Lực, 3 lý do này bao gồm: Việt Nam đang có kế hoạch cơ cấu lại tổ chức tín dụng trong 5-10 năm tới, tuy nhiên đến nay có rất ít nghiên cứu đánh giá về thực trạng sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại tổ chức tín dụng và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng một cách đầy đủ khách quan. Bên cạnh đó, hệ số an toàn vốn (CAR) tại các NHTM vẫn chưa tăng tương ứng tốc độ tăng tài sản và tín dụng là thực tế rất cần lưu ý.

TS. Cấn Văn Lực: Cân nhắc kỹ khi tính chuyện nới room ngân hàng Việt
TS. Cấn Văn Lực: cần cân nhắc hài hòa các yếu tố thuận lợi và thách thức, cũng như giữa cung và cầu khi xem xét nới room sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng

Trong khi đó, Chính phủ đang có chương trình phục hồi phát triển KTXH, theo đó đặt ra vấn đề cần tăng nguồn vốn và các kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp. “Để thực hiện mục tiêu chương trình này, dự kiến tăng trưởng tín dụng phải cao hơn mức 12% năm nay, đạt khoảng 13-14%.

Trong bối cảnh này, việc các NHTM phải tiếp tục nhu cầu tăng vốn chủ sở hữu, đáp ứng tiêu chuẩn Basel 2 và tới đây là Basel 3, đặc biệt là trong bối cảnh Hệ số an toàn vốn CAR của Việt Nam còn thấp hơn so với khu vực, chỉ đạt 0,14%, thì yêu cầu cần nâng tỷ lệ giới hạn tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài càng đặt ra cấp thiết để tạo thêm nhiều cơ hội cho các NHTM có thể tìm kiếm các đối tác chiến lược nhằm góp phần thực hiện mục tiêu tăng vốn trong thời gian tới”, ông Lực phân tích.

Vì sao nhà đầu tư nước ngoài chưa mặn mà tham gia hết room?

Thực tế các nhà đầu tư nước ngoài và định chế tài chính quốc tế tham gia vào thị trường Việt Nam khá sớm. Số liệu thống kê được ông Lực đưa ra tại Hội thảo cho thấy, hiện Việt Nam có 9 ngân hàng có sở hữu vốn nước ngoài, 2 ngân hàng liên doanh và một số tổ chức có góp vốn vào các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, một vấn đề rất đáng quan tâm là trong vòng 10 năm qua, thị phần tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh tại Việt Nam vẫn chỉ loanh quanh ở mức 10%. Theo ông Lực, điều này rất cần làm rõ nguyên nhân.

TS. Lực đưa ra một số lý giải để giải thích cho hiện trạng này. Thứ nhất, các định chế tài chính nước ngoài rất thận trọng khi hoạt động tại Việt Nam. Họ xem xét đầu tư có quy trình bài bản và quản trị rủi ro sau đó cũng rất bài bản. Nhờ đó, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam rất thấp, giúp tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt khoảng 10%/năm. “Họ hoạt động bình bình với chiến lược rất thận trọng, dù thị trường Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng và dư địa phát triển”, ông Lực bình luận.

Bên cạnh đó, còn là do thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam còn thiếu tính minh bạch, chuẩn mực và bài bản. Điều này dẫn đến tình trạng một số ngân hàng nước ngoài thoái vốn, bán mảng bán lẻ cho một số tổ chức khác, điển hình như trường hợp Ngân hàng ANZ bán bớt mảng này gần đây và chuyển sang dạng thức kinh doanh khác với chiến lược thay đổi.

Cũng tương tự, nhiều ngân hang liên doanh chuyển hiện diện tại Việt Nam thành ngân hàng con, hiện có 9 ngân hàng con tại Việt Nam hoạt động như 1 ngân hàng bản địa dù vẫn còn một số hạn chế nhất định. Song rất đáng chú ý, họ lại tham gia kênh khác như trở thành cổ đông chiến lược, cổ đông tài chính trong các ngân hàng Việt Nam.

Một vấn đề rất đáng quan tâm trong thực trạng room sở hữu của ngân hàng nước ngoài cũng được ông Lực đề cập, đó là tình trạng chưa sử dụng hết tỷ lệ trần room 30% tại các ngân hàng. Hiện nay trong 4 ngân hàng nhà nước lớn, mới có 3 ngân hàng lớn là Vietcombank. Viettinbank và BIDV có tỷ lệ sở hữu nước ngoài từ 16,7-25,5%, còn Ngân hàng nông nghiệp mới đang chuẩn bị cổ phần hóa, như vậy tính bình quân tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong 4 ngân hàng nhà nước lớn mới chỉ loanh quanh ở mức 16-17%, vẫn còn dư địa tới 13% trong khu vực này.

Về phía các NHTM, theo ông Lực, tuy một số NHTM đã sử dụng gần hết room cho nhà đầu tư nước ngoài với tỷ lệ khoảng 27- 28%, song nếu mời chào thì cũng chưa chắc nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia thêm do họ có chiến lược của họ, họ không muốn bỏ trứng vào 1 giỏ. “Bài học kinh nghiệm thực tiễn của BIDV cho thấy tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phù hợp là rất vất vả và khó khăn, hiện vẫn đang tiếp tục tìm kiếm nhà đầu tư tài chính. BIDV thuê hãng tư vấn của Mỹ – Morgan Stanley – để tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược, chứ không phải tự tìm mà vẫn khó khăn”, ông Lực cho hay.

Ngoài ra, quá trình thẩm định đánh giá phê duyệt của Việt Nam quá lâu khiến nhà đầu tư bị lỡ cơ hội. Chưa kể chính sách, chủ trương định hướng của Việt Nam thiếu nhất quán khiến nhà đầu tư nước ngoài rất khó định hướng, cũng là lý do khiến nhà đầu tư ngoại không muốn tham gia hết room. Ông Lực lấy ví dụ, Quyết định 986/2018-QĐ-TTg của Thủ tướng ban hành năm 2018 đề cập đến việc năm 2025, nhà nước giữ tỷ lệ sở hữu 51% tại 3 ngân hàng nhà nước lớn, không kể Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tất nhiên còn tùy thuộc cam kết EVFTA và khác, song gần đây lại có văn bản đề cập tỷ lệ này là 65%. “Sự thiếu nhất quán gây khó cho nhà đầu tư nước ngoài”, ông Lực bình luận.

Mặt khác xét về chủ quan, các định chế tài chính nước ngoài thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn nên có sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh. Trong bối cảnh này, họ đã nhận diện có kênh đầu tư khác hấp dẫn hơn như lập quỹ đầu tư để đầu tư thứ cấp. Đây là các vấn đề ông Lực cho rằng rất cần được xem xét trong việc nhận diện lý do và cơ sở để điều chỉnh nới trần tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong thời gian tới.

Cần có quan điểm định hướng và lập luận rõ ràng về nới room

Trên cơ sở các phân tích này, Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV cho rằng, để có thể đưa ra cơ sở chuẩn xác cho việc đề xuất xem xét nới tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng, trước hết Chính phủ cần sớm thông qua Đề án Cơ cấu lại tổ chức tín dụng. Đề án này cần định hướng rõ ràng định hướng quan trọng về sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng nhà nước lớn hiện nay. Đồng thời, cần đẩy nhanh việc sửa Luật bảo hiểm tiền gửi, Luật các tổ chức tín dụng nhằm tháo gỡ nhiều vướng mắc về tổ chức tín dụng và Luật Ngân hàng nhà nước. Đặc biệt, cần nhất quán tỷ lệ sở hữu của nhà nước và nước ngoài tại 4 ngân hàng nhà nước lớn để nhà đầu tư nước ngoài có cơ sở định hướng chiến lược đầu tư.

Bên cạnh đó, ông Lực cũng cho rằng, cần cân nhắc có nhất thiết đề xuất nâng tỷ lệ room cứng từ 30% lên 35% hay không. “Chúng ta mong muốn có trung tâm tài chính tại TP. HCM, song cần chứng minh tính khả thi của mong muốn đó. Nếu cứ theo mong muốn chủ quan và nới room ra, sau đó khối ngoại không hết tỷ lệ sở hữu vì các lý do này khác thì kiến nghị nới room cũng không hợp lý. Chưa kể sắp tới hệ thống ngân hàng phải đẩy mạnh tái cấu trúc lại các tổ chức yếu kém. Liệu nhà đầu tư ngoại có mặn mà tham gia 35- 49% hay không? Theo tôi, quan điểm phải mở hơn đối với các ngân hàng này, cần có sự gặp nhau hài hòa của cả cung và cầu. Kiến nghị nâng room trong các trường hợp này là khó, nên cần lập luận sắc sảo hơn”, ông Lực khuyến nghị.

TS. Lực cũng lưu ý, Nhà nước cần xác định rõ quan điểm và định hướng đối với tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các tổ chức fintech, công ty chứng khoán, các tổ chức trung gian thanh toán khi cân nhắc việc nới room tại các ngân hàng để đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả tổng thể của hệ thống./,