LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM NĂM 2021 TĂNG THẤP NHẤT TRONG 6 NĂM QUA, MẶC DÙ LẠM PHÁT THẾ GIỚI TĂNG CAO

Các yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát năm 2021 và áp lực lạm phát năm 2022

TS. Nguyễn Bích Lâm,

Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê

Sau khi nhiều nền kinh tế thế giới triển khai tiêm vaccine, đại dịch Covid-19 từng bước được khống chế. Chính phủ của các nền kinh tế lớn đã thực hiện nhiều gói hỗ trợ với quy mô lớn cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm kích thích tổng cầu, hỗ trợ sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng. Đầu tư và tăng trưởng kinh tế từng bước phục hồi, nhưng nhiều quốc gia trên thế giới đã trải qua một năm lạm phát cao, vượt mục tiêu dự kiến.

Bộ Lao động Mỹ vừa công bố, lạm phát của Mỹ trong tháng 12/2021 tăng 7% so với cùng kỳ năm 2020, là mức tăng cao nhất và nhanh nhất trong vòng 40 năm qua. Theo đó, lạm phát cả năm 2021 tại Mỹ lên tới 5,3%, trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh trên 5% liên tục trong nửa năm 2021. Lạm phát cơ bản đạt mức tăng 5,5% – mức tăng nhanh nhất kể từ tháng 2/1991. Tình trạng lạm phát không kiểm soát được đang là một vấn đề đối với chính quyền Mỹ.

Các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) có mức lạm phát tháng 12/2021 cao kỷ lục, tới mức 5%, cao nhất trong 25 năm qua. Đặc biệt, tại Cộng hoà Liên bang Đức, trong tháng 12/2021, tỷ lệ lạm phát tiếp tục tăng so với tháng 11 trước đó, lên mức 5,3%. Trung bình cả năm 2021, tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế đầu tàu châu Âu đạt 3,1% – mức tăng cao nhất trong gần 20 năm gần đây. Một trong những nguyên nhân chính khiến tỷ lệ lạm phát của Eurozone tăng cao là do giá năng lượng tăng mạnh.

Tại Nhật Bản, chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp – chỉ số đo lường mức giá mà các công ty tính phí hàng hóa và dịch vụ của nhau – trong tháng 11/2021 đã tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức tăng theo năm cao chưa từng thấy và có thể coi là một dấu hiệu phản ánh khủng hoảng chuỗi cung ứng và chi phí nguyên liệu thô leo thang, đang tạo sức ép lên giá cả hàng hóa và dịch vụ bán lẻ.

Đối với kinh tế Việt Nam, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 ở mức 1,84% so với năm trước, đây là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016 đến nay. Mặt bằng giá tiêu dùng trên thị trường năm 2021 sau khi giảm trong tháng đầu năm (tháng 01/2021) đã biến động theo xu hướng tăng dần qua các tháng, nhưng không tăng đột biến. Giá các nhóm hàng hóa tăng, giảm đan xen do ảnh hưởng bởi giá thế giới, bởi nhu cầu tiêu dùng trong nước và chính sách hỗ trợ của Chính phủ.

Năm 2021, biến động giá nguyên, nhiên vật liệu thế giới đã tác động tới lạm phát của Việt Nam. Kinh tế nước ta có độ mở lớn và phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu, với tỷ lệ chi phí nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên, nhiên vật liệu của toàn nền kinh tế là 37%. Do đó, khi giá nguyên, nhiên vật liệu thế giới, như: xăng dầu, sắt thép… tăng, cùng với giá cước vận tải, chi phí losigtics tăng cao, sẽ tác động đến lạm phát của Việt Nam. Cụ thể trong năm 2021, cùng với xu thế biến động giá xăng dầu thế giới, giá xăng dầu trong nước đã được điều chỉnh hơn 20 đợt, khiến giá xăng dầu bình quân năm 2021 tăng khoảng 30% so với năm trước. Tương tự, giá gas cũng tăng tới 25%, tác động làm tăng chỉ số CPI của nền kinh tế.

Tuy nhiên, biến động giảm giá của một số nhóm hàng đã góp phần kiềm chế lạm phát trong năm. Một trong các nhóm hàng khiến chỉ số CPI tăng thấp phải kể đến là mặt hàng thịt lợn – mặt hàng chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu tiêu dùng. Mặt hàng thịt lợn trong thời gian qua chịu tác động rất mạnh của dịch Covid-19. Giá thịt lợn giảm sâu từ cuối tháng 4, tháng 5, tháng 7 và nhất là từ đầu tháng 10/2021, Đây cũng là những thời điểm dịch Covid-19 tái bùng phát, diễn biến phức tạp trên cả nước, làm cho nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm mạnh, đặc biệt tại các địa phương thực hiện giãn cách xã hội. Bên cạnh đó, lưu thông hàng hóa bị đứt gãy, nguồn cung thịt lợn dồi dào đã gây nên tình trạng tồn đọng đàn lợn quá lứa chưa xuất chuồng, khiến giá lợn hơi giảm mạnh. Mặc dù tháng cuối năm, giá lợn đã có xu hướng tăng nhẹ và ổn định lại, nhưng tính chung cả năm 2021, giá thịt lợn vẫn giảm gần 10% so với năm trước.

Dịch Covid-19 còn gây tổn thất nặng nề tới các ngành dịch vụ văn hóa, giải trí, du lịch và vận tải. Các hoạt động hầu như bị hạn chế, hoặc gần như tạm dừng hoàn toàn, nhu cầu của người dân giảm mạnh khiến chỉ số giá tiêu dùng của các nhóm dịch vụ này giảm. Đặc biệt, năm 2021, việc Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ người dân gặp khó khăn bởi đại dịch, như: giảm giá điện, nước sinh hoạt, miễn, giảm học phí… đã kiềm chế tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng của nhóm nhà ở và nhóm dịch vụ giáo dục.

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LẠM PHÁT NĂM 2021

Nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa giúp nhiều nền kinh tế phục hồi đà tăng trưởng, nhưng đi kèm với đó là lạm phát tăng cao…

Lạm phát năm 2021 của Việt Nam ở mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua do một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, tổng cầu của nền kinh tế suy giảm, người dân chỉ tiêu dùng các mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày. Làn sóng đại dịch lần thứ tư bùng phát trong năm đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiêu dùng của người dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của nước ta năm 2019 – năm trước khi xảy ra đại dịch – có tốc tăng 2 con số (11,8%), nhưng đến năm 2020 mức tăng chỉ còn 2,6% và bắt đầu giảm so với cùng kỳ năm trước từ tháng 5/2021 và xuống mức giảm sâu nhất – 31,3% vào tháng 8. Những tháng cuối năm, tổng mức bán lẻ có dấu hiệu phục hồi, nhưng vẫn không đạt được mức tăng trưởng dương. Tổng cầu thấp khiến giá các hàng hóa thực phẩm giảm so với năm trước, trong khi nguồn cung dồi dào. Bên cạnh đó, nhu cầu du lịch, văn hóa, vui chơi, giải trí giảm mạnh, người dân chỉ tập trung vào tiêu dùng các hàng hóa thật sự thiết yếu phục vụ đời sống thường nhật, đã khiến cho chỉ số giá tiêu dùng neo ở mức thấp.

Thứ hai, chính sách tài khóa hỗ trợ đặc thù, kịp thời và hiệu quả. Tương tự như các nước trên thế giới, Việt Nam sử dụng chính sách tài khóa để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, nhưng phương thức hỗ trợ của Việt Nam mang tính đặc thù riêng. Trong thời gian qua, Mỹ bỏ ra tổng cộng 4.500 tỷ USD để khắc phục hậu quả của đại dịch, EU cũng bơm 2.190 tỷ USD nhằm giải quyết những hậu quả về kinh tế, xã hội do Covid-19 gây ra. Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản tung ra gói hỗ trợ tài khóa với quy mô lớn chưa từng có trong tiền lệ. Bên cạnh đó, chính sách nới lỏng tín dụng ở các nền kinh tế lớn đã bơm ra thị trường hàng chục ngàn tỷ USD.

Nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa giúp nhiều nền kinh tế phục hồi đà tăng trưởng, nhưng đi kèm với đó là lạm phát tăng cao. Với Việt Nam, sử dụng chính sách tài khóa có nét đặc thù ở chỗ, thay vì phát tiền trực tiếp cho toàn dân, Chính phủ chỉ hỗ trợ cho một số đối tượng khó khăn, chịu tác động trực tiếp của đại dịch với mức hỗ trợ vừa phải. Thêm nữa, Chính phủ giảm giá điện, nước, cước viễn thông, không tăng học phí, viện phí theo lộ trình, thậm chí còn miễn, giảm học phí năm học 2021-2022 cho một số đối tượng, nên nhu cầu xã hội đã thấp do thực hiện giãn cách, lại được giảm giá những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, khiến lạm phát tăng thấp.

Cụ thể, tính từ năm 2020 đến nay, Chính phủ đã 5 lần giảm tiền điện cho người dân và doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch. Ước tính số tiền hỗ trợ 2 đợt trong năm 2020 khoảng 12,3 nghìn tỷ đồng và 3 đợt trong năm 2021 khoảng trên 4,3 nghìn tỷ đồng. Giá nước sinh hoạt cũng giảm, lần giảm thứ nhất thực hiện trong năm 2020 và lần thứ hai thực hiện từ tháng 8 năm 2021. Gói hỗ trợ dịch vụ viễn thông được triển khai từ ngày 05 tháng 08 năm 2021, kéo dài trong 3 tháng, cũng lên tới gần 10 nghìn tỷ đồng. Các chính sách hỗ trợ của Việt Nam mang tính đặc thù, với mức chi thấp, nhưng hiệu quả và kiểm soát được lạm phát, trong khi vẫn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, giá xăng dầu trong năm 2021 diễn biến phức tạp, nhiều thời điểm tăng đột biến do ảnh hưởng của yếu tố kinh tế và chính trị thế giới, nhưng với việc sử dụng linh hoạt, phù hợp Quỹ bình ổn giá xăng dầu đã giúp Việt Nam kiểm soát được tác động của giá xăng dầu tới CPI. Giá xăng dầu tăng không chỉ tác động làm tăng giá thành sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, mà còn trực tiếp làm tăng CPI, ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của người dân. Khi giá xăng dầu tăng 10%, sẽ làm cho chỉ số CPI tăng 0,36 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, chi tiêu cho xăng dầu chiếm 1,5% trong tổng tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình. Khi giá xăng dầu tăng cao, hộ gia đình sẽ cơ cấu lại và cắt giảm một phần chi tiêu, điều này làm giảm tổng cầu của nền kinh tế. Năm 2021, giá xăng dầu bình quân tăng khoảng 30% so với năm trước. Tuy nhiên, mức tăng này vẫn thấp hơn so với mức tăng giá xăng dầu của thế giới, bởi song hành với việc điều hành theo giá thế giới, Chính phủ đã kết hợp sử dụng hiệu quả công cụ Quỹ bình ổn giá xăng dầu để hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và giảm một phần chi tiêu của người dân.

Thứ tư, do chuẩn bị trước nguồn vật tư, doanh nghiệp cắt giảm chi phí và lợi nhuận, không tăng giá bán sản phẩm trong bối cảnh giá nguyên, nhiên vật liệu thế giới tăng cao. Sản xuất của nền kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu. So với cùng kỳ năm trước, năm 2021, giá nguyên vật liệu nhập khẩu tăng cao, cụ thể: giá lúa mì tăng 12,47%; ngô tăng 33,95%; thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tăng 20,6%; đậu tương tăng 41,42%; hóa chất hữu cơ tăng 31,09%; chất dẻo nguyên liệu tăng 21,38%; gỗ và các mặt hàng bằng gỗ tăng 13,04%; xơ sợi dệt các loại tăng 17,86%; phế liệu sắt thép tăng 56,94%; sắt và thép không hợp kim tăng 42,61%; thép không gỉ, thép hợp kim khác tăng 36,34%. Mặc dù giá nguyên vật liệu thế giới tăng cao, nhưng chưa tác động nhiều tới chỉ số giá tiêu dùng trong nước, do các doanh nghiệp lớn của Việt Nam thường ký hợp đồng dài hạn, hàng hóa đã nhập khẩu từ trước chuẩn bị cho hoạt động sản xuất. Thêm vào đó, chi phí đầu vào tăng, sản xuất gặp nhiều khó khăn nhưng các doanh nghiệp chấp nhận giảm lợi nhuận, chưa tăng giá bán để duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, không gây ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hóa, nhất là trong bối cảnh tổng cầu yếu như hiện nay. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn giá, không tăng giá bán trong suốt mùa dịch cũng giúp kiềm chế lạm phát năm 2021.

Thứ năm, chính sách tiền tệ linh hoạt, đồng bộ, hiệu quả góp phần kiểm soát thành công lạm phát. Trong năm 2021, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, điều hành chủ động, linh hoạt trong tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp, kiểm soát lạm phát mục tiêu, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế trong vòng xoáy của đại dịch.

Lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ. Tỷ giá hối đoái được điều hành theo hướng công bố tỷ giá trung tâm, biến động linh hoạt hàng ngày phù hợp với diễn biến thị trường trong và ngoài nước, đảm bảo ổn định vĩ mô, đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước đã giảm tần suất can thiệp, tạo điều kiện để tỷ giá diễn biến linh hoạt hơn, phù hợp với điều kiện thị trường trong, khi vẫn hấp thu nguồn cung ngoại tệ dồi dào, đảm bảo thị trường ngoại tệ vận hành thông suốt, hỗ trợ thanh khoản đồng nội tệ trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp. Nhờ đó, tỷ giá liên ngân hàng diễn biến linh hoạt, thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Đến tháng 12/2021, tỷ giá giao dịch bình quân thị trường liên ngân hàng giảm 0,03% so với cuối năm 2020, góp phần giảm sức ép tăng giá của nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng nhập khẩu đối với thị trường trong nước.

Kết quả của việc thực thi chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời và hiệu quả trong kiểm soát lạm phát được phản ánh qua chỉ tiêu lạm phát cơ bản bình quân năm 2021 tăng 0,81% so với năm 2020, thấp hơn mức tăng CPI năm 2021 và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2011. Điều này cũng phản ánh lạm phát của năm 2021 chủ yếu gây ra bởi giá lương thực, giá nguyên, nhiên vật liệu, dịch vụ vận tải, logistics.

ÁP LỰC LẠM PHÁT NĂM 2022

Do phụ thuộc nhiều vào đầu nhập khẩu, nên năm 2022, kinh tế nước ta có thể phải đối mặt với tình trạng gia tăng nhập khẩu lạm phát, trong bối cảnh các nền kinh tế đối tác thương mại lớn, như: Mỹ, EU, Hàn Quốc… đều ở tình trạng lạm phát cao.

Năm 2021 khép lại, kinh tế Việt Nam trải qua “giấc ngủ đông” bất đắc dĩ do chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 lần thứ tư, nhưng vẫn thành công trong việc duy trì được mức tăng trưởng dương và kiểm soát lạm phát ở mức thấp nhất trong 6 năm qua. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, năm 2022 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ phục hồi về mức trước đại dịch. Khi nền kinh tế phục hồi, lạm phát có thể gia tăng từ cả bên cung và bên cầu. Vì vậy, áp lực lạm phát của năm 2022 là rất lớn.

Chính phủ đang xây dựng để trình Quốc hội Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau đại dịch Covid-19 với quy mô 800.000 tỷ đồng, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021 đang thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Nếu các chính sách được triển khai, tổng cầu sẽ tăng đột biến, sẽ gia tăng áp lực lên lạm phát năm 2022.

Đại dịch Covid-19 đã gây ra tình trạng đứt gãy trong nhiều chuỗi sản xuất và lưu thông hàng hóa, hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn, phát sinh thêm nhiều khoản chi phí. Bên cạnh đó, khu vực doanh nghiệp phải đối mặt với thực tế thiếu hụt lao động do ảnh hưởng của đại dịch. Để có đủ lao động làm việc, doanh nghiệp phải trả lương cao hơn, tăng chi phí đào tạo và tuyển dụng, từ đó làm tăng giá thành sản phẩm. Nếu sản xuất của doanh nghiệp không sớm trở lại bình thường, nguồn cung của nền kinh tế bị thiếu hụt, cũng sẽ là nhân tố đẩy giá cả tăng cao. Đây cũng là yếu tố gây áp lực lên lạm phát của nền kinh tế trong năm 2022 và các năm tiếp theo.

Nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và giá cả trong nước chịu tác động rất mạnh từ tổng cầu của kinh tế thế giới, từ biến động giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu và tỷ giá hối đoái. Năm 2022, kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục phục hồi mạnh mẽ, khiến nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng cao, trong khi nguồn cung chưa đáp ứng kịp thời tổng cầu dẫn đến giá các mặt hàng gia tăng.

Do phụ thuộc nhiều vào đầu nhập khẩu, nên năm 2022, kinh tế nước ta có thể phải đối mặt với tình trạng gia tăng nhập khẩu lạm phát, trong bối cảnh các nền kinh tế đối tác thương mại lớn, như: Mỹ, EU, Hàn Quốc… đều ở tình trạng lạm phát cao.

Sau khi Tổ chức Y tế Thế giới thông báo biến thể Omicron của virus SARS-CoV-2 gây dịch Covid-19 có nguy cơ lây nhiễm rất cao, Fitch và Moody, hai công ty xếp hạng tín nhiệm của Mỹ, đã nhận định, biến thể Omicron có thể làm tổn hại tới triển vọng tăng trưởng toàn cầu, đồng thời đẩy giá cả thị trường lên cao hơn. Bên cạnh đó, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Jerome Powell thừa nhận, lạm phát của nền kinh tế Mỹ trong năm 2021 không phải là nhất thời, đồng thời cho biết, FED cần chuẩn bị ứng phó với kịch bản lạm phát không suy giảm trong 6 tháng đầu năm 2022. Do đó, FED cần điều chỉnh chính sách tiền tệ để thực thi chính sách bớt dễ dãi hơn trong năm tới.

Giám đốc Đầu tư của Hãng quản lý tài sản Kingswood, ông Rupert Thompson nhận định: “Lạm phát tại Eurozone năm 2022 sẽ cao hơn khá nhiều so với mục tiêu 2%. Những con số này sẽ khiến các ngân hàng trung ương khó khăn hơn trong việc điều chỉnh chương trình kích thích và hoãn tăng lãi suất đến năm 2023″.

Để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát năm 2022 khoảng 4%, với sức ép lạm phát thế giới tăng cao trong năm 2022 trong khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, Chính phủ cần có giải pháp linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, ưu tiên phòng chống đại dịch, khẩn trương phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng sau khi khống chế, kiểm soát thành công làn sóng đại dịch Covid-19 lần thứ tư./.

TS. Nguyễn Bích Lâm,

Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2 năm 2022)