Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương và phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3/2023, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng mặc dù khẳng định trong bối cảnh khó khăn gia tăng, tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, tăng trưởng GDI quý I thấp hơn kịch bản đề ra, song Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn kiến nghị lựa chọn Kịch bản 2, phấn đấu tăng trưởng cả năm là 6,5%, tạo đà cho các năm tiếp theo để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng 5 năm 2021-2025 từ 6,5-7%.

Cập nhật kịch bản tăng trưởng 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị giữ mức 6,5%
Toàn cảnh Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương. Ảnh: VGP

Nền kinh tế đang có nhiều khó khăn

Bộ trưởng cho biết, diễn biến ngày càng bất lợi, khó lường của thế giới đã ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, nhất là sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư… Cụ thể:

(1) Tăng trưởng kinh tế quý I ước đạt 3,32% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP (kịch bản là 5,6%). Khu vực nông, lâm, thủy sản và dịch vụ cơ bản ổn định, phục hồi khá (tăng 2,52% và 6,79% so với cùng kỳ). Khu vực công nghiệp – xây dựng giảm 0,4%, trong đó công nghiệp giảm 0,82%, ảnh hưởng trực tiếp và làm giảm tốc độ tăng trưởng của toàn nền kinh tế.

(2) Hoạt động sản xuất, kinh doanh, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, đầu tư, thu hút FDI… gặp nhiều khó khăn. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) quý I giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2022 tăng 6,8%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,4% (quý I/2022 tăng 7,3%). Sản xuất của nhiều ngành công nghiệp chủ lực như: dệt may, điện tử, đồ gỗ, lương thực, thực phẩm… và của các địa bàn công nghiệp trọng điểm như: Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Nam… giảm hoặc tăng thấp.

Tiêu thụ giảm, tồn kho tăng cao. Tính chung quý I, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 6,6%), tỷ lệ tồn kho là 81,1% (cùng kỳ năm 2022 là 79,9%). Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê, khoảng 40% doanh nghiệp chế biến, chế tạo có khối lượng sản xuất, đơn hàng quý I giảm so với quý trước.

Qua nắm bắt tình hình doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, trong quý I giá trị xuất khẩu thủy sản giảm 30% so với cùng kỳ năm trước, đơn hàng dệt may giảm 15-20%… Các doanh nghiệp xây dựng chưa đạt được 10% kế hoạch năm. Khó khăn có thể kéo dài hết quý II /2023.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý I chỉ tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2021 là 8%, năm 2022 là 9%), trong đó đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chỉ tăng 1,8%. Vốn FDI đăng ký vào nước ta quý I giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Các tập đoàn lớn xem xét kỹ việc tiếp tục đầu tư lớn vào nước ta trước tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu và phản ứng chính sách của Chính phủ.

Tăng trưởng tín dụng đến ngày 28/3 chỉ tăng 2,06%, cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp, nền kinh tế tiếp tục khó khăn.

Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động quý I đạt gần 57 nghìn doanh nghiệp (giảm 5,4% so với cùng kỳ), thấp hơn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (trên 60,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 17,4% so với cùng kỳ).

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa quý I đều giảm, lần lượt là 13,3%, 11,9% và 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang các thị trường lớn giảm như: Mỹ (giảm 21,1%), EU (giảm 8,1%), Hàn Quốc (giảm 3,3%), ASEAN (giảm 1,7%)… Xuất khẩu sang Trung Quốc quý I giảm 12,6%, đảo chiều so với xu hướng 02 tháng đầu năm (tăng 4,2%), cho thấy nhu cầu nhập khẩu tiêu dùng hàng Việt Nam từ Trung Quốc có dấu hiệu giảm.

(3) Áp lực điều hành kinh tế vĩ mô gia tăng. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn kịch bản đề ra; sản xuất, kinh doanh, đầu tư gặp nhiều khó khăn, xuất nhập khẩu giảm… khả năng sẽ tác động đến thu NSNN ngay trong quý II và cả năm.

Điều hành chính sách tiền tệ có thể khó khăn hơn, nhất là trong bối cảnh chính sách tiền tệ của Mỹ, EU sẽ phức tạp, khó dự báo hơn, vừa phải nhất quán với định hướng thắt chặt để kiểm soát lạm phát, vừa phải xử lý các rủi ro của hệ thống ngân hàng, bảo đảm thanh khoản, cung ứng tín dụng cho nền kinh tế.

Thương mại, xuất nhập khẩu gặp nhiều thách thức khi hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn suy yếu. Thu hút FDI khó khăn hơn, khi dòng vốn FDI toàn cầu bị thu hẹp, lợi thế cạnh tranh về ưu đãi thuế của Việt Nam giảm dần do tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu.

Điều hành giá chịu áp lực do năm 2023 trong bối cảnh dự kiến điều chỉnh giá điện, y tế và các mặt hàng do Nhà nước kiểm soát giá, cộng hưởng với việc điều chỉnh chính sách tiền lương có thể tác động lớn đến lạm phát.

(4) Rủi ro dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến trái quy luật, khó dự báo, an ninh kinh tế, an ninh mạng phức tạp… tiếp tục là những vấn đề cần quan tâm.

“Nhìn chung, kinh tế vĩ mô tháng 3 và quý I cơ bản được giữ ổn định, kiểm soát được lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm được các cân đối lớn”, Bộ trưởng nêu nhận định. Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng thừa nhận nền kinh tế đăng gặp nhiều khó khăn.

“Do ảnh hưởng tác động từ bên ngoài, tăng trưởng kinh tế quý I thấp hơn kịch bản đề ra và đang phải đối mặt với nhiều nhó khăn, thách thức; lạm phát tiềm ẩn rủi ro; xuất khẩu giảm, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế khó khăn; sức ép điều hành kinh tế vĩ mô tăng cao. Việc phối hợp của một số bộ, cơ quan, trong một số trường hợp còn chưa hiệu quả, kéo dài, lãng phí thời gian, nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế, sản xuất, kinh doanh. Yêu cầu các giải pháp điều hành quyết liệt, chủ động, kịp thời và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng hơn, tranh thủ các cơ hội, dư địa chính sách đã được Quốc hội quyết nghị để tận dụng thời gian, cơ hội phục hồi nhanh và phát triển bền vững”, Bộ trưởng phát biểu.

Cập nhật 2 kịch bản tăng trưởng, kiến nghị kịch bản tăng trưởng cao

Thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn; lạm phát tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao; chính sách tiền tệ thắt chặt ảnh hưởng rõ nét đến sản xuất, kinh doanh, bộc lộ rủi ro an toàn hệ thống ngân hàng tại nhiều quốc gia. IMF gần đây đã cảnh báo gia tăng rủi ro ổn định tài chính, tiền tệ toàn cầu. Cạnh tranh về thu hút vốn đầu tư, thị trường xuất khẩu mạnh mẽ hơn. Xung đột Nga – Ucraina còn tiếp tục kéo dài, gay gắt hơn; cạnh tranh chiến lược nước lớn, thiên tai, biến đổi khí hậu… cần quan tâm. Một số tổ chức quốc tế gần đây đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Mỹ, các nền kinh tế lớn. WB dự báo kinh tế thế giới sẽ rất khó khăn trong giai đoạn 2022-2030, tăng trưởng bình quân chỉ đạt 2,2%/năm.

Trong nước, hoạt động sản xuất, kinh doanh đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức hơn; xuất khẩu, đầu tư, thu hút FDI giảm, thị trường bất động sản nhiều khó khăn… là sức ép rất lớn đối với điều hành tăng trưởng, kinh tế vĩ mô cả năm.

“Thị trường tài chính, các hoạt động kinh tế nước ta có thể bị tác động lớn và kéo dài nếu Mỹ, EU không xử lý hiệu quả những vấn đề của hệ thống ngân hàng, tạo tác động lan truyền đến toàn cầu. Trung Quốc mở cửa trở lại vừa là cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu… nhưng cũng vừa là thách thức khi gia tăng áp lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư, sản xuất, thị trường trong nước… Dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, bão lũ… tiếp tục diễn biến bất thường”, Bộ trưởng chỉ rõ.

Trên cơ sở kết quả quý I, dự báo tình hình quý II và cả năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo 02 kịch bản tăng trưởng như sau:

Kịch bản 1: Tăng trưởng kinh tế cả năm dự kiến đạt 6% (thấp hơn 0,5 điểm % so với mục tiêu Quốc hội quyết nghị), tăng trưởng các quý II, III và IV theo kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP (lần lượt là 6,7%, 6,5% và 7,1%).

Trường hợp tăng trưởng năm 2023 chỉ đạt 6% sẽ gây áp lực rất lớn lên mục tiêu tăng trưởng 05 năm 2021-2025 (6,5-7%), đòi hỏi năm 2024 – 2025 phải đạt tăng trưởng bình quân gần 8%/năm để đạt mục tiêu 05 năm là 6,5%.

Kịch bản 2: Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm là 6,5%, tăng trưởng kinh tế quý II là 6,7% (bằng kịch bản Nghị quyết số 01/NQ-CP), quý III và quý IV tăng trưởng lần lượt là 7,5% và 7,9% (cao hơn lần lượt 1 điểm % và 0,8 điểm % so với kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP).

Chỉ rõ kịch bản 2 là “rất thách thức”, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ rõ, hiện nay, hầu hết các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân thuộc Chương trình phục hồi và phát triển KTXH đã hết thời gian thực hiện hoặc hiệu quả thấp. Do đó, cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ mới như giảm thuế, phí…, tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị lựa chọn Kịch bản 2, phấn đấu tăng trưởng cả năm là 6,5%, tạo đà cho các năm tiếp theo để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng 05 năm 2021-2025 từ 6,5-7%.

Để thực hiện được kịch bản này, Bộ trưởng cũng đề xuất các quan điểm chỉ đạo điều hành quý II.

Thứ nhất, quán triệt nghiêm tinh thần chủ đề điều hành “Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả”, 06 quan điểm, trọng tâm chỉ đạo điều hành tại Nghị quyết số 01/NQ-CP; bám sát các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội về Chiến lược 10 năm, Kế hoạch 05 năm và năm 2023.

Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; nắm chắc tình hình thực tiễn, nâng cao năng lực phân tích, dự báo; phối hợp đồng bộ, hiệu quả các chính sách vĩ mô, chủ động ứng phó với các vấn đề mới phát sinh, không để kéo dài, gây ách tắc, lãng phí nguồn lực; khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ mọi thời cơ, cơ hội phục hồi và phát triển KT-XH, quyết tâm thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát đã được Đảng, Quốc hội quyết nghị.

Thứ hai, chính sách tài khóa có trọng tâm, trọng điểm, tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, người dân để giảm áp lực chi phí, thúc đẩy sản xuất, thu hút đầu tư, giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH, 03 chương trình mục tiêu quốc gia, tạo động lực tăng trưởng kinh tế; giảm giá đầu ra nhằm kiểm soát lạm phát; hỗ trợ người dân, nhất là người nghèo, lao động thu nhập thấp, đối tượng yếu thế.

Thứ ba, chính sách tiền tệ chắc chắn, linh hoạt, chủ động, kịp thời, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, chính sách vĩ mô khác; giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn vay; giữ ổn định mặt bằng tỷ giá phù hợp; bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Chủ động nghiên cứu, đánh giá nguyên nhân đổ vỡ của các các ngân hàng tại Mỹ, sáp nhập ngân hàng tại Thụy Sỹ, đánh giá tác động tới hệ thống ngân hàng và nền kinh tế nước ta, từ đó chủ động chuẩn bị các nhiệm vụ, giải pháp và kịch bản ứng phó, không để bị động, bất ngờ khi tình huống xấu xảy ra.

Thứ tư, điều hành giá thận trọng, xác định thời điểm, lộ trình điều chỉnh giá phù hợp, tránh giật cục, tác động cộng hưởng đến giá hàng hóa, dịch vụ khác. Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong trường hợp cần thiết, nhất là khi điều chỉnh giá các nhóm hàng giá điện, nước, y tế…

Thứ năm, chính sách về thương mại tranh thủ cơ hội xuất khẩu của từng mặt hàng, từng thị trường; thúc đẩy tiêu dùng nội địa.

Thứ sáu, chính sách về đầu tư tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai các dự án, trong đó trọng tâm là tháo gỡ ngay từ cấp cơ sở, trực tiếp đối với các doanh nghiệp, nhà đầu tư, dự án đầu tư; tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; đổi mới, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thu hút FDI.

“Thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp để cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư kinh doanh, trong đó chú trọng và chủ động đối thoại doanh nghiệp, nhà đầu tư để giải quyết khó khăn, vướng mắc kịp thời”, Bộ trưởng kiến nghị./.