PHÁT HUY NỘI LỰC, TẬN DỤNG NGOẠI LỰC CHO PHÁT TRIỂN

Đại dịch Covid-19 gây nên 4 hệ luỵ đối với kinh tế thế giới: chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn cục bộ, lưu thông hàng hóa và lao động bị ảnh hưởng, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động thương mại và đầu tư; suy giảm tổng cầu của nền kinh tế; tâm tư và mục tiêu kinh doanh bị xáo trộn, cần định hình lại; thay đổi quan hệ hợp tác giữa các nước do sự can thiệp của các chính phủ.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi và bất định, kinh tế Việt Nam lại có độ mở lớn, nên để ổn định và phát triển, đòi hỏi nền kinh tế phải phát huy tối đa và sử dụng hiệu quả nội lực, đồng thời tranh thủ và tận dụng một cách khôn khéo, linh hoạt và hiệu quả ngoại lực. Từ đó, thúc đẩy mạnh mẽ động lực của nền kinh tế nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đã được Đảng đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030.

Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho tương lai Việt Nam

TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê

Đối với kinh tế Việt Nam, ổn định vĩ mô là nội lực quan trọng nhất. Kinh tế vĩ mô ổn định trong bối cảnh thế giới có nhiều rủi ro, bất định, tạo niềm tin và cơ sở vững chắc cho dòng chảy vốn đầu tư vào Việt Nam.

Xu thế thương mại hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu sắc, việc tăng cường và phát huy nội lực để chủ động phát triển trong môi trường ổn định là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Tùy vào điều kiện và tình hình cụ thể, mỗi nền kinh tế có các nội lực, ngoại lực giống và khác nhau.

Đối với kinh tế Việt Nam, ổn định vĩ mô là nội lực quan trọng nhất của Đất nước. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng cao trong bối cảnh thế giới có nhiều rủi ro, bất định, tạo nên niềm tin và cơ sở vững chắc cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư, tiến hành sản xuất kinh doanh lâu dài tại Việt Nam. Với môi trường vĩ mô ổn định trong những năm qua, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội của nền kinh tế luôn chiếm trên 33% trong GDP; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện chiếm khoảng 23% trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Mỗi năm có khoảng 130 nghìn doanh nghiệp mới thành lập mới, nâng tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của nền kinh tế tại thời điểm cuối năm 2020 là 811,5 nghìn.

Lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc; chung sức đồng lòng vượt qua khó khăn; lòng nhân ái bao dung, nhường cơm sẻ áo tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, là nội lực vô giá, không phải đất nước nào cũng có được như Việt Nam. Nội lực này là cơ sở, nền tảng vững chắc để dân tộc Việt Nam vượt qua và chiến thắng khó khăn, thách thức.

Trong thử thách khắc nghiệt của Đất nước, dân tộc ta luôn có những sáng tạo không ngừng để hướng về tương lai tốt đẹp. Thực tiễn hiện nay cho thấy, giữa lúc đại dịch Covid-19 bùng phát trên diện rộng, truyền thống đoàn kết toàn dân tộc đã gắn kết người dân Việt Nam thành một khối thống nhất, chung sức, đồng lòng cùng Chính phủ thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh. Khắp mọi miền đất nước, người dân hăng hái góp sức người, sức của mua vaccine, cùng nhiều phương tiện và trang thiết bị y tế, đã thể hiện đậm nét truyền thống chung sức, đồng lòng của dân tộc ta.

Khả năng của Chính phủ trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chính sách phù hợp và khả thi; trong quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn là nội lực quan trọng, không thể thiếu để đất nước phát triển.

Ngày 26/7/2021, tại Lễ nhậm chức, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu rằng, Chính phủ sẽ có biện pháp cụ thể để cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội;khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp cống hiến, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo, khơi dậy động lực và khát khao cống hiến cho đất nước của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế.

Trong môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, khu vực doanh nghiệp chủ động, linh hoạt trong tạo lập và tận dụng cơ hội sản xuất kinh doanh là nội lực quan trọng cho phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống của người dân. Hiện nay, khu vực doanh nghiệp tạo ra trên 60% GDP, giải quyết việc làm cho khoảng 15 triệu lao động, chiếm 27,6% trong tổng số lao động đang làm việc của nền kinh tế. Cộng đồng doanh nghiệp năng động, linh hoạt, thông minh, không khoanh tay trước những khó khăn, biến cố, biết cách “biến nguy thành cơ” là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế Việt Nam.

Thực tế đại dịch Covid-19 diễn ra từ đầu năm 2020 và tiếp tục bùng phát lần thứ tư tại Việt Nam vào tháng 4/2021 đã làm đứt gãy nhiều chuỗi sản xuất và lưu thông của nền kinh tế, gây ra rất nhiều khó khăn cho khu vực doanh nghiệp. Để thích ứng với bối cảnh đại dịch quay lại, cộng đồng doanh nghiệp đã nhanh chóng tìm hướng đi mới, thực hiện nhiều giải pháp nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Khoảng 2/3 số doanh nghiệp đã áp dụng ít nhất một trong những giải pháp để thích ứng với hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện bình thường mới. Các doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm thị trường mới để tiêu thụ sản phẩm đầu ra và nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào; đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử; sản xuất, cung cấp hàng hóa và dịch vụ mới theo nhu cầu của thị trường; chuyển đổi sang các sản phẩm, dịch vụ chủ lực.

Về thực lực của khối doanh nghiệp, nước ta có số lượng doanh nghiệp khá lớn, nhưng doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ chiếm trên 97%; doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ chiếm 66,8%. Năm 2019, tuy số lượng doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 2,8% trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng lợi nhuận trước thuế của khu vực FDI chiếm đến 45% tổng lợi nhuận trước thuế của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Chỉ số nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước là 3,6 lần, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là 2,0 lần và khu vực doanh nghiệp FDI là 1,6 lần. Điều này cho thấy, khu vực doanh nghiệp trong nước cần nhìn nhận các điểm yếu nội tại, chủ động đổi mới phát huy nội lực để sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Cũng trên góc độ kinh tế, đất đai, lao động và vốn là những yếu tố sản xuất chủ yếu và cũng là nội lực quan trọng của đất nước. Tuy vậy công nghệ, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức còn quan trọng hơn rất nhiều. Nhật Bản là đất nước minh chứng đậm nét nhất, cụ thể nhất cho điều này.

Trong thập kỷ 2011-2020, vốn vẫn là yếu tố chủ yếu đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế. Giai đoạn 2016-2020, yếu tố vốn đóng góp đến 53,3% vào tăng trưởng, còn lại là đóng góp của lao động và các nhân tố tổng hợp. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, do đầu tư dàn trải, kéo dài, thất thoát và lãng phí khá lớn. Sử dụng vốn chưa hợp lý giữa các khu vực kinh tế. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tạo ra trên 15% GDP nhưng có lượng vốn đầu tư chỉ chiếm 5-6% tổng vốn đầu tư của cả nền kinh tế.

Yếu tố vừa là nội lực và ngoại lực có quan hệ mật thiết, bổ sung, thay thế nhau gồm: vốn, công nghệ, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh. Cùng với vốn và công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nói cách khác vốn, công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là 3 yếu tố quan trọng, cần khai thác hiệu quả để phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho phát triển kinh tế.

Việt Nam mới gia nhập nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp, để dành của nền kinh tế không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư. Nếu chỉ đầu tư ở mức để dành hiện có thì kinh tế tăng trưởng chậm. Để đất nước phát triển nhanh, nền kinh tế phải có tỷ lệ đầu tư cao. Do mức để dành không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư, chúng ta phải bù đắp bằng nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài có được qua các hình thức: vay vốn ưu đãi của chính phủ nước ngoài (vốn ODA); vay thương mại; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)… Vốn ODA và vay thương mại phát sinh nợ phải trả, nên phải dùng ngoại lực này thật sự hiệu quả để đảm bảo trả được nợ đúng hạn. FDI là hình thức tận dụng ngoại lực không phát sinh nợ.

Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho tương lai Việt Nam
Thúc đẩy Việt Nam chọn con đường số cũng là một trong những khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới trong báo cáo tháng 8/2021

Công nghệ luôn là phương thức và công cụ mạnh nhất để xây dựng một xã hội thịnh vượng vượt trội trong mọi thời đại. Hiện nay công nghệ là nguồn lực rất quan trọng trong phát triển và đảm bảo khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trên cả góc độ vĩ mô và doanh nghiệp. Các quốc gia không có năng lực tạo ra công nghệ muốn phát triển phải nhập công nghệ tiên tiến từ bên ngoài. Công nghệ từ bên ngoài có được theo các hình thức: mua công nghệ; FDI; xây dựng, hoạt động, chuyển giao (BOT); Nhà sản xuất thiết bị gốc (Doanh nghiệp trong nước sản xuất bằng công nghệ, đơn hàng và chuyển toàn bộ sản phẩm cho doanh nghiệp nước ngoài-OEM) … Trong các hình thức nêu trên mua công nghệ và FDI thường được các nước áp dụng.

Năng lực quản lý và khả năng kinh doanh được du nhập chủ yếu bằng hình thức FDI. Qua FDI, vốn, công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh đồng thời hiện hữu và vận hành trong nền kinh tế. Như vậy, hình thức FDI là ngoại lực quan trọng bổ sung đồng thời cả 3 yếu tố nội lực cho nền kinh tế.

FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Bình quân giai đoạn 2016-2020, vốn FDI thực hiện chiếm 22,9% trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; tỷ trọng GDP của khu vực FDI chiếm khoảng 20% trong tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế; thu hút gần 5 triệu lao động, chiếm 31,8% tổng số lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp; tạo ra lợi nhuận cao nhất chiếm trên 42% tổng lợi nhuận của toàn bộ khu vực doanh nghiệp; hiệu quả kinh doanh của khu vực FDI cao hơn khá nhiều so với khu vực kinh tế trong nước. Tuy vậy, việc tận dụng ngoại lực về công nghệ, năng lực quản lý và khả năng kinh doanh của nền kinh tế Việt Nam còn kém.

Trong hơn 30 năm qua, kết quả thu hút FDI còn một số bất cập. Tuy nhiên, với niềm tin của cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường Việt Nam, chúng ta cần nhanh chóng tận dụng cơ hội thu hút nguồn lực từ bên ngoài để nền kinh tế có thể hòa nhập, không bị bỏ lại phía sau trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Đối với nước ta, nội lực được xác định là nền tảng, đóng vai trò quyết định; ngoại lực là yếu tố không thể thiếu cho mục tiêu phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Chính phủ và các địa phương cần có chiến lược và giải pháp phù hợp để “nuôi dưỡng và phát huy” nội lực, tận dụng hiệu quả ngoại lực trong từng giai đoạn phát triển đất nước.

ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ TRONG TƯƠNG LAI

Đối với tăng trưởng kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực là điều kiện cần, thúc đẩy thực hiện hiệu quả các động lực tăng trưởng là điều kiện đủ. Trong mỗi giai đoạn, nền kinh tế có các động lực tăng trưởng khác nhau. Căn cứ vào thực tiễn tình hình kinh tế, xã hội của đất nước; tình hình kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới, hiện nay nền kinh tế Việt Nam có các động lực tăng trưởng sau:

Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 là xu hướng tất yếu của các quốc gia, cũng đang và sẽ là một động lực cho Việt Nam. Việt Nam cần áp dụng công nghệ số để thúc đẩy sự tăng trưởng và tạo sự phù hợp với hoạt động kinh tế trong điều kiện bình thường mới.

Thứ nhất, động lực từ cải cách thể chế, tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, công khai, minh bạch cho khu vực doanh nghiệp; tháo gỡ các nút thắt, xoá bỏ nhũng nhiễu và chi phí ngầm của doanh nghiệp; tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp yên tâm sản xuất, hướng tới cạnh tranh lành mạnh để phát triển.

Thứ hai, động lực từ tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng đóng góp của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP, chuyển dần lao động khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đồng thời thực hiện tái cơ cấu trong nội bộ ngành để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ và chất lượng trong thời gian tới.

Thứ ba, động lực từ nâng cao năng suất lao động, đặc biệt năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp bằng phương thức đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức và trình độ, kỹ năng của người lao động.

Thứ tư, động lực từ nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các vùng động lực, cực tăng trưởng, các dự án lớn, quan trọng của quốc gia, dự án quy mô lớn, kết nối liên vùng. Đặc biệt phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công để tạo sự lan toả đến đầu tư tư nhân và khu vực FDI.

Thứ năm, đầu tư công là động lực và giải pháp quan trọng, có tính lan toả rất lớn đối với đầu tư tư nhân và FDI. Tầm quan trọng đặc biệt của đầu tư công trong dẫn dắt tăng trưởng ở chỗ cứ tăng 1 đồng vốn đầu tư công sẽ kéo theo 1,61 đồng vốn đầu tư tư nhân và FDI. Đồng thời đầu tư công hiệu quả là yếu tố quan trọng nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ sáu, động lực từ khai thác thế mạnh của các hiệp định thương mại đã ký để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường cơ hội thu hút và tận dụng dòng vốn FDI.

Thứ bảy, cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 với phát triển và ứng dụng công nghệ số trong quản trị xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống là xu hướng tất yếu của các quốc gia, cũng đang và sẽ là động lực cho Việt Nam. Việt Nam cần áp dụng công nghệ số thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ, tạo sự phù hợp với hoạt động kinh tế trong điều kiện bình thường mới.

Thứ tám, đô thị hóa là một động lực để tăng tổng cầu của nền kinh tế qua tiêu dùng, xây dựng cơ sở hạ tầng; chuyển dịch cơ cấu lao động và việc làm. Thu nhập bình quân đầu người khu vực thành thị gấp khoảng 1,8 lần khu vực nông thôn và chi tiêu gấp 1,6 lần.

BIẾN ĐỘNG LỰC THÀNH GIÁ TRỊ

Để các động lực tăng trưởng được hiện thực hóa thành giá trị gia tăng cho nền kinh tế, việc tiên quyết là Chính phủ cần sửa đổi bổ sung và hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nội lực và ngoại lực của đất nước.

Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho tương lai Việt Nam
Chính phủ cần đổi mới phương thức thu hút đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút các nhà đầu tư hàng đầu thế giới để góp sức nâng tầm phát triển Việt Nam

Nền tảng chính sách cần nâng cao năng lực kiến tạo, quản trị quốc gia, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở tăng cường năng lực, chất lượng phân tích, đánh giá, dự báo các lĩnh vực. Cùng với đó, cần thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại nội bộ từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.

Giải pháp quan trọng khác là Việt Nam cần chủ động nắm bắt cơ hội, tận dụng tối đa thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để đổi mới công nghệ sản xuất, phương thức quản lý, đẩy mạnh phát triển và ứng dụng kỹ thuật số để phát triển đất nước. Cùng với đó, cần đổi mới phương thức sử dụng nguồn vốn trong nước qua các dự án đầu tư và chi tiêu ngân sách. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, rút ngắn thời gian thi công vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các vùng động lực, cực tăng trưởng, các dự án lớn, quan trọng của quốc gia, dự án kết nối liên vùng, các dự án quan trọng, cấp thiết của địa phương. Xoá bỏ tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí; xoá bỏ cơ chế chạy dự án. Tập trung vốn đầu tư làm dự án nào dứt điểm dự án đó, sớm đưa dự án vào sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo tác động lan tỏa.

Chính phủ cần đổi mới phương thức thu hút đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút các nhà đầu tư hàng đầu thế giới, các nước nắm giữ công nghệ nguồn có năng lực quản trị hiện đại, năng lực cạnh tranh cao đầu tư vào Việt Nam. Thu hút FDI vào Việt Nam phải quy định rõ ngành nào, lĩnh vực nào cần ưu tiên, thu hút FDI trên nguyên tắc ngành và lĩnh vực doanh nghiệp trong nước có khả năng làm được thì không kêu gọi đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó Chính phủ có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI đầu tư và sản xuất tại Việt Nam theo hình thức liên doanh, liên kết để doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp cận trực tiếp công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và tri thức kinh doanh tin cậy, tạo hiệu ứng lan tỏa về năng suất và công nghệ.

Liên quan đến nguồn lực con người, Việt Nam cần đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo, đồng thời xây dựng hệ thống học tập suốt đời để luôn cập nhật, nâng cao kỹ năng và tri thức của người lao động. Đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động; hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo lại, tăng cường kỹ năng cho người lao động để lực lượng lao động đáp ứng được nhu cầu lao động trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với những thay đổi của thế giới do đại dịch COVID-19 tạo ra.

Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi sâu sắc, toàn diện với nhiều bất định, phát huy nội lực của đất nước, tận dụng kịp thời và hiệu quả ngoại lực, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng phù hợp với thực tiễn là nhiệm vụ và giải pháp quan trọng để phát triển đất nước. Đây cũng là quan điểm chỉ đạo được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”./.

Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho tương lai Việt Nam Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực cho tương lai Việt Nam
Việt Nam nên linh hoạt lạm phát mục tiêu, rộng đường cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam nên linh hoạt lạm phát mục tiêu, rộng đường cho tăng trưởng kinh tế